
Một chiều hồ Gươm
Mô tả tài liệu
Hồ Gươm cạn nước, khoe ra một hố khảo cổ sắp xuống tới đáy. Đúng dịp này tôi nhận đề tài nghề cổ quanh hồ Gươm. Chẳng mất công đào cũng được khối di vật lịch sử. Nghe tôi nói thế, anh Tôn người làm cùng sở, bình luận ngay, mày làm sử học theo lối móc cống. Nói cùng sở cho oai vậy thôi, tôi còn là sinh viên, lại là dân tỉnh lẻ, xin được chân trực đêm cho công ty du lịch Hòan Kiếm ngay bên hồ Gươm để có chỗ nương thân, tắm giặt và đặt...
Tóm tắt nội dung
Một chiều hồ Gươm
TRUYỆN NGẮN CỦA TRẦN QUỐC TOÀN
Hồ Gươm cạn nước, khoe ra một hố khảo cổ sắp xuống tới đáy. Đúng dịp này tôi nhận
đề tài nghề cổ quanh hồ Gươm. Chẳng mất công đào cũng được khối di vật lịch sử. Nghe
tôi nói thế, anh Tôn người làm cùng sở, bình luận ngay, mày làm sử học theo lối móc
cống.
Nói cùng sở cho oai vậy thôi, tôi còn là sinh viên, lại là dân tỉnh lẻ, xin được chân trực
đêm cho công ty du lịch Hòan Kiếm ngay bên hồ Gươm để có chỗ nương thân, tắm giặt
và đặt một rương sách. Tắm giặt, học hành chứ không ngủ. Tôi chuyên trị các ca đêm,
tranh thủ ngủ vào những lúc các thầy giáo trẻ không giảng mà đọc cho sinh viên chép
giáo trình. Chép làm gì, tôi đọc đã nhão những trang ấy trong các ca trực. Vào những
ngày không phải đến trường, tôi có thể chập chờn giấc trưa trên cái giường kê ngay trong
hầm để xe.
Trưa nay anh Tôn gọi điện xuống, có thích rùa nổi lên mà xem! Tôi chạy như tên bắn qua
cả trăm bậc thang lên tầng bốn. Anh Tôn đang quan sát rùa bằng ống nhòm. Nhưng
không hướng ra mặt hồ mà quay sang nhà hàng karaoke, tầng lầu đối diện. Đấy là phòng
nghỉ của các cô tiếp viên. Anh Tôn đưa ống nhòm cho tôi. Lần đầu tôi được thấy các
khỏa thân sống. Không mảnh mai và mịn màng như khỏa thân Văn Cao minh họa báo
Văn Nghệ, cũng không thật đến gồ ghề, méo mó như kiểu vẽ của Bùi Xuân Phái. Tôi đỏ
mặt buông ống nhòm. Anh Tôn cười hinh hích: Xem đi chứ! Thấy động lại đậy nắp cống
bây giờ!
Y như rằng, cái rèm cửa được kéo lại. Tôi nhòm ra hồ Gươm. Trên bờ hồ một cụ ông
đang bới đống bùn rác mà công nhân nạo vét hồ đổ từng xô lên thùng xe tải. Trông quen
quen, tôi chỉnh lại ống nhòm. Trán sói thật cao, những lọn tóc hiếm hỏi còn lại thì dài tới
chấm vai. Ai như giáo sư Vượng? Tôi định hỏi anh Tôn (nhà Hà Nội học của riêng tôi)
thì anh đã không còn trong phòng. Tôi bỏ ống nhòm, tìm ra hồ. Nếu được giáo sư Vượng
cho mấy câu về các nghề cổ truyền tôi đang tìm kiếm thì còn gì bằng!
Không phải giáo sư sử học, đấy là ông lão bơm xe vẫn ngồi chỗ gốc cây đa ba cảm tử
quân bên đền bà Kiệu. Tôi cũng đã được cụ bơm cho vài lần nên quen mặt. Cụ tìm gì
nhỉ? Có mảnh nghề cổ nào tôi đang cần trong đó không?
Ông ơi! Bơm hay vá cũng nghỉ nhá! Ông ơi, cháu muốn hỏi chuyện? Muốn hỏi thì lên
đây!
Tôi ngại cái đám bùn nhão nhoét, lổn nhổn kia, nhưng tiếc những thứ có thể lượm từ đấy
cho đề tài của mình. Chính mắt tôi vừa thấy cụ Bơm nhặt được những đồng xu, đấy có
thể là phế phẩm đổ xuống từ phường đúc Tràng Tiền bên kia hồ. Chưa hết phân vân, cái
xe tải đã hết sức chứa, cánh thợ nạo vét nghỉ. Cụ Bơm lịch sự, mời cậu qua hàng chè
chén bên kia đường ta nói chuyện. Cậu sang xơi nước tự nhiên. Tôi mời. Để tôi vào đền
rửa mấy đồng xu này đã.
Cụ Bơm vào đền bà Kiệu lối cửa hậu như vào nhà mình. Tôi mừng vì đã tìm đúng người
cần gặp, một người chơi đồ cổ, lại chơi ngay những thứ vớt lên từ cái hồ lịch sử còn sống
trước mặt kia, tha hồ hỏi. Có khi xin được cả cổ vật cũng nên. Cụ Bơm đã sang. Tôi vào
chuyện ngay…
Tiếc quá, cậu chẳng đến sớm dăm năm, lúc ông Nguyễn Dậu còn sống. Ông ấy mới đủ
chữ nghĩa giúp cậu chứ tôi chỉ là anh bơm xe, mới học hết lớp bảy, biết gì mà nói. Cậu
cũng khéo chọn đề tài nhỉ, nghề cổ ven hồ. Chẳng giấu gì cậu, sinh thời cụ Nguyễn Dậu
vẫn coi tôi là bạn vong niên, sách nào mới ra cụ cũng đề tặng. Những cuốn ấy tôi đều
được đọc từ khi còn là bản thảo. Có lần đưa sách, cụ nói, dù phải đứng đường kiếm sống
như anh em ta, nhưng đứng ngay đây, được cái hồ lịch sử này thăm nuôi cũng là đại
phúc. Ráng sống cho ra người Tràng An. Ông cụ vẫn dạy như thế. Cụ lại bảo, những
nghề chẵn, nghề lớn thì đã có chỗ trong ba mươi sáu phố. Nghề lẻ như anh em mình phải
ra bờ hồ, ra phố thứ ba mươi bảy này. Ngẫm lại mà đúng cậu ạ. Cũng nhờ bên trọng bên
khinh như thế mà người Hà Nội những năm bắt đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn
được nghe hát xẩm, ngay dưới chân tháp Bút bên kia. Người Hà Nội mới có ông Hoa
kiều lơ tẩy hồng, bán rao tận cổng mỗi nhà, cứu lấy những áo trắng phin nõn ngả màu
cháo lòng. Chúng tôi đều đứng đường cậu ạ, ông Dậu đứng cắt tóc. Còn tôi, khắc bút với
sơn mạ huy hiệu. Mãi sau này giải ngũ thanh niên xung phong tôi mới chuyển ngành bơm
xe. Sơn khắc mới là nghề gia truyền. Quê tôi bên Đông Hồ nhưng nhà tôi có tiệm khắc
dấu phố Hàng Gai, bố tôi làm không hết việc mới nhờ vả bạn thợ, thành ông chủ lúc nào
không hay, bị đánh tư sản, nhà riêng hóa thành hợp tác xã. Bố tôi chỉ là anh xã viên mà
được quen với ông quốc ca Văn Cao kia đấy. Một thời tranh bìa Văn Cao nhà Thanh
Niên với minh họa của ông ấy trên báo Văn Nghệ một tay bố tôi khắc gỗ. Vậy mà không
đủ tiền nuôi tám miệng ăn trong nhà, ông cụ mới kiếm cho anh cả tôi một con dao khắc,
anh tôi ra nghề khắc bút ngay bờ hồ này. Bút Trường Sơn với Hồng Hà khắc cả nghìn
cây chứ chẳng ít. Khắc tặng thầy, tặng bạn, khắc tên mình để đánh dấu phòng người ta
cầm nhầm. Mấy bữa nay tôi theo sát cánh vét hồ là vì muốn tìm dưới ấy một bản khắc
của nhà. Sáng này cô út nhà tôi lên chùa Bộc thắp nhang cầu vớt được di cảo của anh cả.
Tôi thấy nóng ruột lắm! Cạn đến thế kia mà chưa thấy thì lạ quá. Chính tôi cùng với anh
tôi thả những bức khắc ấy xuống hồ mà. Những đồng xu này nhân tiện thì nhặt thôi. Tôi
quyết tìm cho được bút tích anh mình dưới ấy. Mà thôi cánh thợ vét lại vào việc rồi!
Một thợ sơn khắc tìm đồ gia bảo trong đống bùn rác! Lạ nhỉ! Tôi bám sát ông cụ hay
chuyện và chẳng còn ngần ngại, trèo lên xe tải. Gần tiếng đồng hồ nữa, cũng chưa thấy
gì, hai ông cháu lại vào giải lao ở hàng chè chén. Lần này đã thấy anh Tôn ngồi đấy. Thì
ra anh Tôn với cụ Bơm quen thuộc từ trước.
Chú mày giỏi thật! Mò được văn bia rồi. Cứ chép cho hết chuyện từ cái bia sống này
cũng thành một quyển sách. Địa chỉ văn hóa của anh đấy. Tháng trước nhóm các nhà sử
học Pháp sang chuẩn bị cho hội thảo 50 năm Điện Biên Phủ, họ muốn tìm hiểu vang
động đời thường của Điện Biên. Anh đưa tới cụ đây, ngay dưới gốc đa này, trân trọng
giới thiệu cụ là người thường trực ở điểm hẹn ven hồ Gươm của các cựu chiến binh Điện
Biên Phủ! Là vì những cụ bạch đầu quân muốn làm mới huy hiệu Điện Biên Bác Hồ tặng,
cứ phải đến đây, chỉ còn cụ là nhận sơn mạ huy hiệu. Đây là người cuối cùng của nghề
này em ạ!
Cụ Bơm nâng chén chè nóng bằng cả hai tay mời anh Tôn. Không dám! Đấy không còn
là nghề nữa, là nghiệp rồi cậu ạ! Mình không làm mấy việc sơn phết tỉ mẩn ấy, thời buổi
bận bịu này còn ai mặc áo mới cho các chiến sĩ vô danh. Ông Bơm nói rồi chỉ tay vào
anh bộ đội mũ nan, đứng ngắm bắn dưới lá cờ quyết chiến quyết thắng trên tấm huy hiệu
ông mới lựa ra từ một hộp huy hiệu đút trong túi ngực. Tôi làm việc này như tô tượng,
cúng dường không lấy tiền của bất kì cựu chiến bình nào! Ngày ấy, anh em tôi vừa khắc
bút vừa học được ngay trên vỉa hè này nghề sơn mạ huy hiệu. Những huy hiệu cũ đã tróc
sơn, chúng tôi đốt cho sơn bong hết hẳn, rồi cu lơ lại. Đẹp như mới xuất xưởng bên
Trung Quốc bên Liên Xô. Anh tôi nhập ngũ, để lại nghề sơn khắc cho tôi.
Tới đây anh Tôn đã nhấm nháp xong chén nước, lại nối mạch chuyện. Cái bữa dẫn mấy
ông Tây sử học tới đây, các ông ấy hỏi mua huy hiệu Điện Biên, cụ không bán, chỉ tặng.
Rồi cụ cởi huy hiệu mình đang đeo trên ngực, lật mặt trái ra khoe chữ kí của hai hoạ sĩ,
những người vẽ ra cái huy hiệu này, khắc rất sắc nét. Một ông Tây, ngạc nhiên lắm, nói
rất Tây, lần đầu tôi mới thấy một tấm mề đay không có mặt trái! Thế rồi họ khăng khăng
đòi anh dẫn lên gặp các họa sĩ ấy, ông Mai Văn Hiến với ông Nguyễn Bích. Cũng là bạn
vong niên của cụ đây em ạ. Con lạy cụ! Cụ ra cái đòn ngoại giao ấy hơi bị giỏi đấy. Một
tấm huy hiệu mà mặt tiền thì quân sự tiền phương, mặt hậu có hậu phương văn hóa, bố
Tây cũng khiếp vía. Nãy giờ bố cho buyt phê chè chén rồi. Bây giớ con xin đãi bố một li
rượu. Cụ Bơm từ tốn xin vâng! Để tôi góp thêm đĩa lạc.
Bà hàng nước bán thêm được ba chén rượu thì vui lắm. Góp chuyện. Ngồi đây tôi cũng
được thơm lây. Có người nhờ chuyển huy hiệu,đã không đòi biên nhận lại còn khuyến
mãi một vài cốc nước với thanh kẹo lạc. Nghĩ mà tiếc cho bác cả ông nhỉ! Sơn khắc đã
giỏi lại còn là nhạc sinh của thầy Lê mù bán sáo trúc chỗ nhà bia Sơn Đắc Lộ đấy nhé.
Ngay đây này. Ông Lê mù thổi Tiếng thơ thì giỏi, chứ thổi Anh vẫn hành quân là phải
bác cả nhà này. Tiếng sáo nẩy lắm. Bác cả mà đứng bán sáo giúp anh Lê mù thì đắt hàng
phải biết. Đủ chiêu tiếp thị, thổi mẫu, khắc tên, chép bài kỉ niệm. Bên ven bờ Hiền
Lương, Tình trong lá thiếp hay Giữ trọn tình quê bài nào cũng biếu không. Tiếc quá bác
cả mà còn sống thì cũng có danh phận chứ chẳng …
Chẳng ngồi bơm xe như tôi chứ gì! Ông Bơm cười ha hả. Tôi cũng đã thanh niên xung
phong, thưa bà. Anh tôi đã đi chiến trường B đã liệt sĩ rồi tôi chỉ được xung phong loanh
quanh Hà Nội. Suốt mấy năm tại ngũ,chỉ chuyên lochuyện thóat nước,chuyên xung phong
xuống cống. Vậy mà cũng có thằng bạn liệt sĩ đấy. Thằng Dâu bên Gia Lâm. Chân đất
quen rồi, xuống cống không chịu mang ủng, dẫm phải cái tăm tre. Kinh khủng lắm! Cái
tăm cật ngâm nước cứng như đinh sắt xuyên qua bàn chân. Nhiễm uốn ván rồi chết.
Chuyện đến đây thì từ lòng hồ ồ một tiếng lạ lắm. Mặt hồ đang lúc chiều xuống bỗng ánh
lên. Thì ra mấy chúng tôi mải chuyện không biết rằng cánh nạo vét lại đã làm việc và
hình như họ mới móc được thứ gì quí giá lắm.
Tôi và anh Tôn theo cụ Bơm chạy sang Hồ. Người ta móc được pho tượng Phật. Tượng
đá mà lại thếp vàng nên mới phát sáng như thế. Mọi người thành kính lậy Phật, chẳng để
ý tới những thứ bùn rác được vớt lên cùng bức tượng, mấy cái bát hương và một tĩn sành.
Cụ Bơm lượm cái tĩn, đi rất vội sang đền bà Kiệu. Bức khắc giấu trong cái tĩn ấy chăng?
Trong tĩn toàn bùn nhão. Chúng tôi mở vòi nước, bùn ấy lại xuống cống. Tôi đỡ cái tĩn
bằng cả hai tay để ông Bơm cọ rửa mấy mươi năm rêu phong. Hàng chữ khắc vào da
sành hiện dần, chữ sông, chữ núi rồi chữ hồn. Ông Bơm lần theo những con chữ, kể tiếp
chuyện nhà.
Thứ đồ sành này đựng nước mắm Phan Thiết, mỗi lần nhà tôi mua cả chục tĩn, ăn hết lại
đổi tĩn mới. Đất nước chia cắt, nước mắm Phan Thiết không ra được, mấy cái tĩn không
chẳng để làm gì nữa ông cụ mới dạy chúng tôi tập khắc trên ấy. Khắc chữ như viết tập
rồi khắc hình. Hình đôi chim hòa bình tung cánh trên dải dất hình chữ ét, hình người vợ
miền Nam khăn rằn chùm đầu đứng dưới bóng dừa ngóng chồng… Anh tôi khắc hết ngần
ấy cái tĩn sành mới đi khắc bút nhựa thì khắc đã như múa bút! Vậy mà vẫn không đủ tiền
học cho mấy đứa em. Ông ấy đem giấu những cái tĩn này xuống lòng hồ Gươm, để tôm
cá vào làm tổ trong ấy, mình xuống bắt về, bù vào chỗ thiếu hụt tem phiếu, biến tiền chợ
thành tiền học. Ông ấy sát cá lắm, hành quân xa Hà Nội cả nghìn cây số rồi, tôm cá vẫn
kéo vào ủng hộ. Hồ Gươm nuôi nhà này ăn học cậu ạ!
Cụ Bơm kể đến đây thì dòng chữ khắc quanh cái tĩn như một thứ hoa văn trang trí hiện
đủ một vòng tròn ĐÂY HỒ GƯƠM HỒNG HÀ HỒ TÂY ĐÂY LẮNG HỒN NÚI SÔNG
NGÀN NĂM… Mười bốn chữ khắc liền không chấm phẩy để cái vòng ngàn năm kia có
thể bắt đầu bằng bất kì con chữ nào…
Câu chuyện trên xẩy ra chiều 12-1-2004 nhằm 21 tháng Chạp Kỷ Mùi tôi có ghi đầy đủ
trong hồ sơ khoa học của mình.