
Bão Lạc Mùa
Mô tả tài liệu
Những người dân Hòn Nhĩ nhớ mãi trận bão năm 192... không phải vì nó lạ, cũng không phải vì nó mạnh, mặc dù nó đích thực là một cơn bão lạ...
Tóm tắt nội dung
Bão Lạc Mùa Sưu Tầm
Bão Lạc Mùa
Tác giả: Sưu Tầm
Thể loại: Truyện Ngắn
Website: http://motsach.info
Date: 11-October-2012
Những người dân Hòn Nhĩ nhớ mãi trận bão năm 192... không phải vì nó lạ, cũng không phải vì
nó mạnh, mặc dù nó đích thực là một cơn bão lạ... Đổ vào đúng ngày ba mươi Tết, khi mùa bão
đã chấm dứt từ lâu - Và đích thực là một cơn bão mạnh - Sau khi dừng chân trên đảo nó tràn vào
đất liền, đã yếu đi mà vẫn còn quật đổ hàng vạn cây cối, hàng nghìn ngôi nhà, ném hàng trăm
tàu thuyền lên bờ, nhấn chìm cả một vùng đồng bằng xuống biển. Dân đảo đời đời kiếp kiếp
sinh ra và lớn lên giữa lòng biển cả, họ chẳng còn ngạc nhiên trước những điều kỳ lạ cũng như
sức mạnh ghê gớm của thiên nhiên. Điều làm cho họ nhớ là ngoài những cây cối, xác người và
súc vật, mảnh tàu đắm cùng đủ thứ rác rưởi khác, cơn bão còn ném lên đảo một người dân mới -
thằng Ba Nghệch.
Thực ra Ba Nghệch cũng là một thứ rác rưởi mà thôi, mặc dù trước khi trở thành dân Hòn Nhĩ
hắn đã làm việc trên chiếc "Hải Mã" do tôi làm thuyền trưởng.
Năm ấy Ba Nghệch hai bốn tuổi, cao to, đen nhẻm, mặt vuông, trán thấp, cằm bạnh như mang
rắn hổ - Đúng là một con bò đực đần độn nhưng trung thực. Quê hắn ở Sơn Hạ, vùng quê của
thuốc lào đen và những tay thuyền trưởng nổi tiếng ngổ ngáo mà đa tình. Ba Nghệch không cha
không mẹ. Hắn lớn lên như thế nào chẳng ai hay. Khi người ta bắt đầu để ý đến hắn cũng là khi
người ta bắt đầu kinh sợ hắn. Mới mười tám tuổi đầu Ba Nghệch đã khét tiếng là một tay ăn
trộm liều mạng, đến nỗi ngay cả những phường đã bạc đầu trong nghề đào tường khoét gạch
cũng phải kiềng mà nhường hắn làm đại ca. Thế nhưng cũng có người nói rằng Ba Nghệch vẫn
còn biết thương người, rằng có những bà già độc thân, những kẻ lâm nạn được hắn cứu giúp.
Mỗi người nói một đằng, chẳng rõ đúng sai ra sao nhưng ai cũng sợ hắn.
Hai lời đồn đại hóa ra đều là đúng cả. Ba Nghệch đúng là một tay trộm cắp chuyên nghiệp liều
mạng, có điều hắn hoàn toàn không ý thức được tính chất của công việc ấy. Chưa bao giờ hắn
suy ngẫm xem hành động mình làm là đúng hay sai. Thì có ai dạy hắn bao giờ đâu! Hắn đã
không chết yểu, đã lớn lên được là nhờ những đồ ăn cắp, bắt đầu từ miếng bánh bắp ngô, sau
đến cái quần manh áo rồi đồ vàng bạc. Hắn ăn cắp một cách tự nhiên, ăn cắp để sống và khuây
khỏa. Đó là công việc làm ăn của hắn. Trong tiềm thức hắn thấy công việc ấy cũng chính đáng
như công việc của bất kỳ ai.
Những con thú dù tranh nhau ăn vẫn không mất lòng thương đồng loại. Ba Nghệch cũng là một
con thú trơ trọi giữa loài người. Hắn sống đến đâu hay đến đó, trộm cắp được thì ăn xài phung
phí, gặp kẻ nghèo hèn thì cưu mang. Hắn chẳng ham giàu, không sợ chết - Chỉ có bọn ham
Trang 1/10 http://motsach.info
Bão Lạc Mùa Sưu Tầm
giàu mới sợ chết - Thành ra hắn liều. Liều thì được người ta sợ, bí quyết của hắn chỉ có vậy.
Có lẽ cuộc đời Ba Nghệch sẽ cứ thế mà trôi đi cho đến khi chết vì rượu ở một xó xỉnh nào đó
nếu hắn không vô phúc (hay có phúc) mà gặp được Vân Lùn, tức Vân Lì, tức Vân Cá Mập,
người về sau đã giới thiệu hắn lên tàu tôi.
Trước đó, khi Vân Lì còn làm thuyền trưởng chiếc "Dragon" năm trăm ngựa tốt nhất Tùng
Quảng, chúng tôi đã từng có một thời gian dài mánh mung với nhau. Cứ hai tháng một lần
chúng tôi hẹn nhau ở Hòn Đôi, "Hả Mã" bốc sang "Dragon" các loại hàng xa xỉ, vải, gạo và trái
cây khô để nhận dầu, than cục và đồng vụn. Cha này hơn tôi đúng một giáp, người lùn tịt, vai
rộng, chân vòng kiềng, mặt gãy và lạnh tanh như đá cuội, cả ngày không mở miệng trừ khi phát
giá hàng và ra khẩu lệnh. Làm ăn với nhau thật nhưng gặp ông ra tôi luôn cảm giác rờn rợn.
Nghe nói Vân Lì đã từng nện gãy cổ một thằng Mạch lô (1) vì tội ngủ quên giữa phiên gác khi
tàu neo ở Vụng Giải. Vụ ấy đã làm chủ tàu tốn khá nhiều tiền của mới bít đi được. Tuy vậy ông
ta không dám thải Vân. Là chủ tàu nhưng ông ta vẫn nể và có phần sợ Vân. Kiếm được một tay
thuyền trưởng như vậy đâu phải dễ - Vân Lì thuộc lòng từng viên đá, từng doi cát ngầm dưới đáy
biển suốt từ Thuận Bình đến Trà Hoa. Ngoài ra còn một lý do nữa buộc chủ tàu phải giữ Vân
lại: cũng như hầu hết các tay thuyền trưởng gốc gác ở Sơn Hạ, Vân Lì khét tiếng với những
ngón đòn hiểm hóc khiến tất cả đám dân anh chị ở Hòn Chông đều kiềng mặt. Trong cuộc
cạnh tranh đến chóng mặt giữa các hãng tàu, cái tên Vân Lì sẽ là lời cảnh cáo của ông ta đối với
những đối thủ đang nảy nòi đông đúc như ruồi.
Cuộc đời riêng của Vân Lì tôi chỉ biết qua những lời đồn đại. Nói cho công bằng thì tuy vẻ ngoài
lì lợm nhưng chưa bao giờ Vân tỏ ra hung bạo, ít ra là chưa bao giờ tôi trông thấy. Có người
nhận xét: Cá mập ngấy thịt người rồi thì còn hiền quá cá heo! Cũng có lý!
Vân còn có biệt hiệu là Cá Mập. Điều này hoàn toàn không phải vì Vân có tài săn cá mập, mặc
dù tôi biết chắc chắn ông ta đã từng vật lộn với chúng không chỉ một lần, mà vì Vân luôn luôn
đeo bên mình chiếc vuốt hổ có khắc hình cá mập. Đó là bùa hộ mệnh của ông. Việc đeo bùa hộ
mệnh bây giờ có vẻ lạ lẫm nhưng thời đó chẳng làm ai ngạc nhiên. Dân biển ai cũng có một
chiếc bùa hộ mệnh và được gọi bằng một biệt danh gắn liền với nó. Bùa hộ mệnh của tôi chẳng
hạn, là chiếc móng quạ.
Một lần tôi để ý thấy con số 60 trên cái vuốt hổ của Vân Lì, bèn hỏi nó có nghĩa gì. Vân bảo
"Tao sống đến sáu mươi tuổi". Tưởng nói chơi nhưng đến năm năm mươi nhăm tuổi Vân Lì đột
nhiên tuyên bố từ giã nghề đi biển.
- Lênh đênh thế đủ rồi, năm năm cuối đời tao về quê cha đất tổ - Ông nói vậy rồi sau bữa rượu
ngán (2) chần, gói chiếc áo vằn với hai chục đồng bạc, trở về Sơn Hạ, giũ bỏ tất cả: biển khơi,
con tàu, tuổi xuân, sức lực và những lời đồn đại.
Bây giờ, biết chuyện tôi chỉ thấy nực cười. Đúng là lão gàn, đầu hai thứ tóc rồi mà còn tin những
chuyện nhảm nhí. Mà dù có tin thì cũng cứ ở lại với biển, sống chết trên sóng nước cho thỏa,
việc gì phải mò về để rục xương ở cái xứ khỉ ho cò gáy của ông ta! Phải mãi sau này tôi mới hiểu
ra rằng mọi thứ đều có cội nguồn. Con người cũng vậy, cuối cùng sẽ phải trở về nơi đã sinh ra
họ.
Ngôi nhà của Vân Lì nằm trên sườn đồi, tận rìa làng, mái lợp cỏ tranh, tường trình đất đỏ, xung
quanh có rào đá bao bọc, kiểu thường thấy ở những vùng bán sơn địa. Sau trận đậu mùa trước
Trang 2/10 http://motsach.info
Bão Lạc Mùa Sưu Tầm
đó ba năm họ hàng thân thích của ông chỉ còn lại đứa cháu gái ngoài ba mươi tuổi, gọi Vân
bằng chú, thân hình gầy đét, mặt rỗ như tổ ong, không chồng, suốt ngày quàu quạu. Nếp sống
của Vân Lì thay đổi hẳn. Ông vận quần áo bằng vải thô, do đứa cháu gái tự dệt và nhuộm chàm,
từ sáng sớm đến tối mịt cặm cụi làm vườn, sửa nhà như một lão nông thực thụ. Chỉ có rượu là
ông không bỏ, có lẽ không muốn bỏ. Ông uống rượu như uống nước, uống rượu thay nước.
Những khi nhớ biển, rượu đem lại cho ông cái cảm giác bồng bềnh quen thuộc. Ông thường
uống rượu vào buổi chiều, sau một ngày làm lụng quần quật như trâu lăn, mặc chiếc áo vằn,
ngồi bắt chân chữ ngũ trên mảnh chiếu con ở đầu hè, mắt đăm đăm nhìn đồng lúa rập rờn như
sóng. Lúc đó ông có trông thấy thằng Ba Nghệch lảng vảng qua lại hay không? Có lẽ là có,
nhưng rõ ràng là ông chẳng thèm để ý đến hắn. Cổng rả vẫn để tanh bành ra đấy, thậm chí khi
đứa cháu gái thì thào Vân Lì cũng cứ phớt như không.
Chuyện ấy không lọt qua mắt những người thóc mách. Dân làng thấp thỏm chờ cuộc đụng độ.
Thế rồi một hôm Vân Lì say rượu, đập vỡ cóng tương ở gốc cau và thượng cẳng chân, hạ cẳng
tay với đứa cháu gái. Hàng xóm biết vậy vì thấy cô ta mặt mày thâm tím, ngực lấm tấm nước
tương, sang xin vôi và lá khoai, chắc làm thuốc giã rượu. Đứa cháu dìu chú vào nhà, đặt nằm
trên chiếc phản mộc, bôi vôi vào gan bàn chân và đổ nước lá khoai vào cái miệng đang thở phì
phì. Chỉ có cô ta biết rằng chiếc áo vằn không cánh mà bay.
Nửa đêm hàng xóm đột nhiên kinh động vì một tiếng rú rùng rợn, ngắn và lạnh như cật nứa cứ
vào bắp thịt. Người ta nhận ra giọng Ba Nghệch và lờ mờ hiểu ra mọi chuyện. Cho đến sáng
không ai chợp mắt nhưng cũng chẳng dám ra đường, chỉ cài chặt then cửa, đoán già đoán non
và thì thào về Vân Lì đủ chuyện: Những miếng võ bí truyền, những cuộc trả thù tàn khốc. Vỏ
quýt dày có móng tay nhọn. Đáng đời Ba Nghệch, vô phúc vớ phải tay không vừa. Có lẽ những
câu chuyện ấy đều được thêu dệt thêm cho li kỳ, nhưng tính công bằng nghiệt ngã của Vân Lì
có thật, tôi biết rõ như vậy. Ba Nghệch đang sống đêm cuối cùng của đời hắn.
Nhưng Ba Nghệch không hay biết điều đó, mặc dù hắn không hề ngủ. Khi bị ném như một bó
củi xuống sàn và nghe tiếng chốt cửa lạch cạch đóng lại, hắn sờ tay lên ngực. Máu từ vết thương
ở xương quai sanh vẫn còn ri rỉ, thấm đẫm chiếc áo vằn lính thủy. Con thú lần đầu bị cầm tù
chợt hiểu ra tình thế, thở hồng hộc, lồng lộn một cách tuyệt vọng trên sàn nhà xây bằng đá hộc.
Mũi hắn ngửi thấy mùi nước đái ngựa nồng nặc, chân hắn đạp lên những đống phân khô, tai
hắn nghe ong ong tiếng muỗi đàn, tay hắn sờ soạng trên bốn bức tường ghép bằng gỗ nguyên
cây, chỉ bóc vỏ, vẫn còn chìa ra những vấu lớn xù xì. Húc bằng đầu không nổi, nắm đấm như cái
vồ của hắn cũng chẳng làm những khúc gỗ suy suyển chút nào. Ba Nghệch bèn lấy móng tay mà
cào. Những móng tay của hắn dày, cứng như mảnh sành, nếu bình tĩnh mà tách từng thớ gỗ thì
cũng khá được việc. Nhưng đầu hắn làm gì có óc mà nghĩ. Hắn cứ hùng hục cào như người ta
dùng bàn cạo mà cạo gỉ. Vài cọng xơ gỗ rơi xuống chân càng khích lệ hắn. Hắn làm việc như
điên như dại, cho đến khi móng tay trỏ tuột phựt ra, mắc lại trong đám sợi gỗ bờm xơm. Hắn
nấc lên vì đau đớn, vội đưa ngón tay mất móng lên mồm mà hút. Dòng máu mằn mặn tứa ra
mồm khiến hắn bình tĩnh lại và sực nhớ đến hàm răng.
Buổi sáng, khi Vân Lì lại gần chuồng ngựa thì Ba Nghệch đã dùng răng cắn xé, mở được một
khe hở đủ để thò đầu ra ngoài. Cảnh tượng thật khủng khiếp: một cái đầu bù xù như tổ quạ,
những cái răng chìa ra to như răng ngựa, hai hàng lợi bị gỗ cào rách tướp vẫn đang ròng ròng
máu.
Trang 3/10 http://motsach.info
Bão Lạc Mùa Sưu Tầm
Mắt Vân Lì sáng lên vì phấn chấn. Những thợ săn cá mập lão luyện cũng phấn chấn như thế khi
gặp được một con mồi dữ tợn. Ông từ từ tiến lại gần.
Nhưng mặt khi đối mặt với Ba Nghệch, khi ánh mắt ông chạm phải ánh mắt hắn thì Vân Lì giật
mình lùi lại, không tin vào mắt mình. Trước mặt ông là cặp mắt của một người vô tội. Trong
cuộc đời bôn ba, ngang dọc, Vân chưa từng gặp cái nhìn nào như thế, mặc dù đã chạm trán với
đủ loại kẻ thù, nhiều lắm, ông không thể nhớ nổi, cũng như không sao nhớ nổi trong đời mình
có bao nhiêu chuyến ra khơi. Tất cả những cặp măt ấy - dù căm giận hay khiếp nhược, đần độn
hay gian giảo - đều ngập trong những tia hối hận chỉ làm ông khinh bỉ. Chúng, lũ súc vật ấy, ý
thức hoàn toàn rõ ràng về việc làm của mình, nhưng lòng tham và tâm địa tàn bạo khiến chúng
mờ mắt, tự giác lao vào tội ác. Chính vì thế mà khi bị sa lưới chúng hối hận, van xin.
Vân Lì tiến lại, Ba Nghệch vẫn lồng lộn nhìn ông, răng nghiến ken két, mắt vằn lên những tia
máu đỏ ngầu. Đúng, ông không nhầm. Đó là đôi mắt của một con thú dữ, hung hãn nhưng vô
tội.
Ông ném con dao xuống đất và mở cửa.
Chẳng biết Vân Lì đã giảng giải cho Ba Nghệch những gì về nhân cách nhưng khi ông ta dẫn
hắn đến giao cho tôi thì Ba Nghệch đã trở thành một gã đàn ông hiền như đất. Trên tàu, ngoài
tôi ra không ai biết gì về quá khứ u mê và bẩn thỉu mà chính hắn đã quyết một lòng đoạn tuỵệt.
Có người bảo Ba Nghệch dở hơi, kẻ khác lại nói hắn lại cái. Hãy thử tưởng tượng một thằng
mạch lô không rượu, không thuốc, không cờ bạc, cũng chẳng thèm để ý đến những ả chèo
thuyền "mua mọi thứ cần bán, bán mọi thứ cần mua", lả lơi và sấn sổ như quỷ cái giữa đám đàn
ông bỗ bã và sấn sổ như quỷ đực. Những lúc ấy Ba Nghệch lẳng lặng bỏ ra ngồi một góc, cặm
cụi học chầu dây hoặc những công việc thủy nghiệp khác. Hắn tập chăm chỉ đến nỗi không ai
nỡ cáu giận khi thấy sự vụng về của hắn, mà dù có cáu thì hắn cũng không phật ý, chỉ nhe răng,
không biết cười hay mếu, càng nhẫn nại hơn. Cuối cùng tôi hiểu rằng, cái đầu củ chuối của hắn
không thể tiếp thu những kiến thức dù sơ đẳng ấy. Ba Nghệch không thể trở thành thủy thủ
được. Hắn chỉ có ích mỗi khi xảy ra ẩu đả với đám đàn ông say rượu ở các cảng, mà đó là
chuyện cơm bữa, nguyên nhân nhiều khi rất ngớ ngẩn, phần lớn có liên quan đến mấy ả bán ô-
vi-lơ(3) và ngán chần.
Bấy giờ Ba Nghệch đã ở trên tàu được non một năm. Chiều hăm tám Tết "Hải Mã" nhổ neo ở
mũi Ba Gà, định rấn một mạch về Hòn Chông trước giao thừa. Trời mù, biển cũng động rồi,
sóng không dưới cấp sáu. Nhưng chúng tôi không ngán. Máu về ăn Tết át đi mọi lo ngại. Vào
dịp cuối năm nhưng con tàu đã rã rời vì sóng gió bị cuốn hút về bến cảng chẳng khác gì lũ chim
mỏi cánh bị hút về tổ lúc hoàng hôn.
Trong lịch sử ngành hàng hải đã có bao nhiêu thuyền trưởng chôn vùi sự nghiệp của mình dưới
đáy biển vì những cái tặc lưỡi như vậy?
Vừa đi khỏi doi cát ngầm, tới chính ngang Hòn Diều, tôi cho tàu nhằm hướng chính bắc, quất
hết tốc lực. "Hải Mã" rung lên, thở hồng hộc. Những dãy núi ven bờ nhòa đi nhanh chóng. Sóng
mỗi lúc một mạnh. Từ trên đài chỉ huy tôi lo ngại nhìn mũi tàu chốc chốc lại chìm đi dưới đám
bọt nước trắng xóa. Dù sao cũng không thể nghĩ đến chuyện quay lại.
Cả ngày hôm sau thời tiết không khá hơn. Tàu đi chậm đến sốt ruột vì ngược gió, ngược nước.
Trang 4/10 http://motsach.info
Bão Lạc Mùa Sưu Tầm
Gần trưa ngày ba mươi sương mù dần dần tan. Mặt trời hiện ra, đỏ ngầu như máu. Biển chuyển
sang mầu nước dưa.
- Bão mất rồi - Đám mạch lô kêu lên khi trông thấy cá heo xuất hiện hàng đàn cách tàu chưa
đầy năm chục mét.
Làm gì có bão vào mùa này nhỉ? Nhưng bão đang đến gần thật. Một đám mây lạ xuất hiện phía
chân trời rồi nhanh chóng tỏa ra hình nan quạt. Không khí bỗng chốc ngột ngạt và nóng bức
như giữa mùa hè.
Lúc đó "Hải Mã" đang ở giữa mũi Sào và Hòn Cóc. Tiến thoái lưỡng nan, cách duy nhất là chạy
vào Hòn Nhĩ, một cù lao nhỏ cách tuyến hàng hải chừng mười lăm hải lý về phía tây. Tôi chưa
lần nào đến đó. Tránh bão ở một nơi xa lạ thì thật mạo hiểm, nhưng dù sao cũng còn hơn là
phơi lưng giữa biển. Tôi cho tàu quay mũi. Có kịp không? Chỉ có trời mới biết. Bọn mạch lô
huýt sáo và cười đùa vui vẻ. Cười đùa trong nguy hiểm đấy là biểu hiện tuyệt vọng. Dân biển lúc
bình an thì uống rượu và văng tục, gặp việc dễ thì cãi cọ phồng mang trợn mắt, có khó khăn thì
mắm môi im lặng, còn khi tuyệt vọng thì vui vẻ cười đùa - Lúc đó còn bụng dạ nào nữa mà uống
rượu và văng tục, có cách giải quyết nào đâu mà bàn cãi, còn im lặng thì khủng khiếp quá, vậy
biết để làm gì?
Con tàu, cơn bão và bóng đêm đến Hòn Nhĩ cũng một lúc. Trong trường hợp này chớ có dại thả
neo. Chẳng có xích neo nào chịu đựng nổi những cú giật ghê người như thế. Tôi lợi dụng ánh
chớp để xác định vị trí, cho tàu chạy vòng quanh đảo. Đó là trò chơi đuổi bắt căng thẳng và
không cân sức. Hòn đảo ở giữa, một bên là con tàu nhỏ nhoi, bên kia cơn bão như một gã
khổng lồ đáng sợ. Chúng tôi chèo chống, vật lộn, kinh hãi và tuyệt vọng. Tôi không nhớ được gì
cụ thể. Tất cả như một cơn ác mộng. Về sau tôi lấy làm kinh ngạc: tại sao chúng tôi thoát chết?
Không biết cơn bão kéo dài bao lâu, nhưng đột nhiên nó dừng lại, dường như sực nhớ là đã
vướng chân ở hòn đảo nhỏ với con tàu bướng bỉnh này quá lâu, bèn hướng vào đất liền, giận dữ
lao đi, để lại một trận mưa sầm sập như trút nước.
Tôi không dám cho tắt máy ngay, cử người kiểm tra kỹ các khoang, chỉ tin chắc rằng cơn bão đã
tan hẳn mới hạ lệnh cho thả neo, tàu bị hư hại nhẹ, hơn nữa giao thừa cũng đã qua rồi, tôi quyết
định ở lại.
Hôm sau trời tạnh ráo và ấm áp. Đó cũng là điều bình thường ở vùng này - Thời tiết đã sang
xuân. Hòn đảo nằm phơi mình dưới nắng. Nếu không kể những thứ rác rưởi ngổn ngang trên
bãi cát thì phong cảnh bình yên như đêm qua chẳng có chuyện gì xảy ra.
Cũng như tất cả các đảo cát ở miền trung mà tôi có dịp ghé qua, Hòn Nhĩ có rất ít mầu xanh.
Tôi trông thấy thấp thoáng vài tàu dừa xơ xác. Một nhóm nhỏ, thưa thớt mấy ngôi nhà vách đất
thấp lè tè, mái lợp lá dừa, được chèn kỹ bằng đủ thứ gỗ, ván và cây cọc để chống chọi với gió
bão. Một đám đông chừng hai chục người, phần lớn là đàn bà và trẻ con, mặc những cái quần
ống rộng, áo nhuộm chàm, tụ tập sát mép nước, chỉ trỏ về phía tàu, điệu bộ rất tò mò. Mấy đứa
con trai táo tợn nhất nhảy ùm xuống nước, mặc cho những bà mẹ huơ tay lên trời giận dữ, bơi
ra tận tàu, quẫy nước tung toé như cá heo, bám lấy xích neo và hét váng lên bằng tiếng địa
phương trọ trẹ rất khó nghe:
- Đầu tàu ở đằng nào các chú hề?
Trang 5/10 http://motsach.info
Bão Lạc Mùa Sưu Tầm
Trên bờ đám người đông dần đến khoảng bốn chục, sau đó tản bớt đi, nhưng cũng chỉ có người
lớn ra về, còn lũ trẻ vẫn ở lại, tiếp tục la hét đến tối mịt. Về sau tôi biết rằng đó là gần như toàn
bộ dân cư trên đảo.
Sự tò mò của dân đảo là chuyện dễ hiểu, tôi cũng đã gặp nhiều lần. Dân đảo trừ những người
đàn ông thường phải đi khơi xa và thỉnh thoảng ghé vào đất liền, suốt đời không rời hòn đảo.
Hòn Nhĩ xa tuyến hàng hải, lại ở giữa hai cảng lớn Ba Gà và Hòn Cóc, nên tàu bè ít khi ghé
vào. Có lẽ đó là lần đầu tiên họ được trông thấy một chiếc tàu to như vậy.
Dân Hòn Nhĩ sống bằng nghề đánh cá. Đó là một nghề hết sức bấp bênh và nguy hiểm. Hằng
năm những người đàn ông trên đảo ra khơi từ giữa tháng giêng đến cuối thu. Hầu như vụ cá nào
cũng có người thiệt mạng. Đảo luôn luôn thiếu đàn ông, mỗi người phải nuôi năm sáu miệng ăn.
Đàn bà chỉ việc đẻ đái, nuôi con và muối cá. Hết vụ cá, dân đảo chất cá muối lên thuyền, chở
vào đất liền đổi lấy khoai ngô, muối, dầu, vải và những đồ dùng cần thiết khác, chỉ để lại cá
nhâm, loại cá mình dẹt, lắm xương và nhiều vảy. Đời sống của dân đảo rất kham khổ, quanh
năm chỉ có khoai, ngô với cá nhâm muối. Những năm thời vụ không thuận lợi, khoai ngô cũng
không đủ. Gạo là thứ xa xỉ chỉ dành cho người ốm và dịp giỗ Tết.
Năm ấy coi như không có Tết. Ngay từ hôm mồng một chúng tôi đã bắt tay vào công việc. Chỉ
cần sửa chữa những gì không thể trì hoãn để tiếp tục hành trình. Ra bắc, rằm tháng Giêng ăn
Tết lại. Sau đó hẵng hay. Số thực phẩm dự trữ được bảo quản cẩn thận là thế mà vẫn bị nước
mặn làm hỏng phần lớn, rượu cũng đã hết. Việc bổ sung tôi giao cho Ba Nghệch. Chính việc
này đã dẫn hắn đến với Chắt.
Chắt là một người đàn bà ba mươi mốt tuổi với những nét đặc trưng của dân miền biển: da đen,
môi dày, đôi vai rộng, quen gánh vác những công việc nặng nhọc. Vì Chắt cao lớn và có dáng đi
lừng lững như đàn ông nên dân đảo gọi cô là "Chắt Đực" để phân biệt với cô Chắt khác là Chắt
Còi. Nhà Chắt Đực ở cuối xóm. Cô sống bằng nghề nấu rượu, hoạn lợn và muối cá thuê. Nghề
muối cá đàn bà trên đảo ai cũng làm, còn hai nghề kia với ngôi nhà là những thứ cô thừa hưởng
của người cha đã chết vì đắm thuyền tám năm về trước, khi cô mới hai ba tuổi. Mẹ "Chắt Đực"
chết từ khi cô còn ẵm ngửa.
Hôm ấy Chắt cùng đám đàn bà con gái đi xem tàu về, đang định rủ nhau đến nhà cụ Chòm xem
các ông bà già chơi tam cúc. Ba Nghệch vừa dưới xuồng lên, vai khoác chiếc bao tải, tay xách
thùng rượu bằng gỗ có quai đồng, bước huỳnh huỵnh theo sườn đảo thoai thoải dốc. Chắt bảo:
- Anh gì có mua cá mều không nờ?
Ba Nghệch ngẩn người. Chắt bảo:
- Đây này! - nói rồi vỗ bộp vào con "cá mều" của cô bạn đứng bên cạnh và cười ré lên.
Ba Nghệch đỏ bừng mặt nhưng thinh thích. Lần đầu tiên trong đời Ba Nghệch đỏ mặt. Lối đùa
tục tĩu và chân thật của Chắt khơi dậy trong lòng hắn bản năng giống đực. Đã bao giờ hắn được
đàn bà chòng ghẹo như vậy đâu: Người ta chỉ khiếp sợ hoặc kinh tởm hắn. Hai cách xử sự này
kích thích tính man rợ ở cả con thú lẫn con người.
Ba Nghệch lí nhí:
Trang 6/10 http://motsach.info
Bão Lạc Mùa Sưu Tầm
- Tôi mua rượu, mới lại gà, mới lại rau.
Chắt bảo:
- ở đây không có rau, gà phải đến cụ Chòm, còn rượu thì theo tôi.
Chắt nói rồi xăm xăm đi trước. Ba Nghệch theo sau. Dọc đường hắn nhìn đuôi tóc bé tí tẹo,
vàng như lông bò trên lưng Chắt, lại nhìn bờ vai vạm vỡ, lại nhìn hai cái mông bè bè, đâm bối
rối.
Vào nhà, Chắt bảo Ba Nghệch ngồi xuống cái ghế con rồi nói:
- Chẳng mấy khi anh đến chơi nhà, lại ngày Tết ngày nhất, mời anh uống rượu, ăn bánh với tôi
cho vui! - Nói rồi đi xuống bếp. Ba Nghệch đảo mắt nhìn quanh. Đồ đạc trong nhà chẳng có gì
ngoài hai cái chum to, một cái đã vỡ, phải hàn lại bằng thứ keo gì đó mầu vàng xỉn. Giữa nhà có
bàn thờ đắp bằng đất, trên đặt hai cặp bánh chưng, chùm dừa xanh, giữa bày bát hương đã tắt
hết. Một con mèo già gần trụi hết lông đang ngủ say sưa trên chiếc phản nứt nẻ kê bên trái bàn
thờ. Dưới gầm phản có cái chậu gỗ đựng con dao nhỏ, cái kéo, cái kim lớn đã xỏ dây và lọ
thuốc. Đó là đồ nghề hoạn lợn.
Chắt bê lên một cái hũ nút lá dừa khô, hai cái bát sành, một đĩa tôm kho, trên rắc mấy ngọn rau
tựa như rau ngổ, sau đó lấy một chiếc bánh trên bàn thờ xuống, đặt trên ghế con, rót rượu ra
bát. Ba Nghệch chối đây đẩy:
- Tôi không uống rượu đâu!
Chắt cứ chìa cho Ba Nghệch một bát:
- Anh đừng từ chối, giông đấy! - Nói rồi cũng bưng một bát, uống ừng ực. Rượu khoai chua loét,
đục như nước gạo, không lấy gì làm nặng, nhưng đã lâu không uống rượu nên Ba Nghệch cũng
thấy lâng lâng. Hắn bạo lên, bảo:
- Chị uống được nhiều nhỉ.
Chắt đáp:
- Làm nghề nào ăn nghề nấy.
Ba Nghệch liếc trộm vào ngực Chắt:
- Chị xinh gớm!
Chắt đỏ bừng mặt, nguýt:
- Nhà anh cũng khỏe gớm.
Ba Nghệch ngồi im một lúc rồi đột ngột bảo:
- Này!
Chắt ngẩng lên. Ba Nghệch ôm choàng lấy thân hình vạm vỡ của Chắt, vật ngửa cô ta ra đất.
Chắt không chống cự, chỉ ú ớ gì đó không rõ. Một lúc sau hai đứa hổn hển đứng dậy. Chắt khép
ngực áo đứt cúc, bảo:
Trang 7/10 http://motsach.info
Bão Lạc Mùa Sưu Tầm
- à quên, chưa bóc bánh - Nói rồi bóc bánh, cắt làm tư, lấy đũa xiên cho Ba Nghệch một miếng.
Bánh độn khoai, nhân chỉ có vài hạt vừng. Ba Nghệch ăn hết hai miếng ngon lành. Chắt hỏi:
- Anh lấy tôi chứ?
Ba Nghệch đáp như mất hồn:
- Để xem đã.
Thực ra ngay từ lúc đó Ba Nghệch đã gắn bó đời mình với Chắt, người đàn bà đã đem đến cho
hắn niềm hạnh phúc bình đẳng làm người và tình yêu chân thật.
Công việc sửa chữa tưởng ít, ai dè kéo dài đến mồng chín mới hòm hòm. Buổi sáng Ba Nghệch
chèo thuyền vào bờ, đổi được một con lợn gầy dơ xương, nặng gần ba chục ký. Tôi cho giết thịt
và quyết định sáng hôm sau, mồng mười, sẽ nhổ neo ra bắc. Đám mạch lô thảy đều hồ hởi-
Chúng đã chán ngấy tận cổ hòn đảo cằn cỗi và thứ rượu khoai chua loét rồi. Riêng Ba Nghệch
không nói năng gì, chỉ cau có và văng tục. Điều ấy chẳng khiến ai để ý- lầm lì và cục súc là bản
tính của hắn. Vì vậy ai nấy đều bất ngờ khi hắn xin ở lại đảo cưới vợ.
- Lại bão đến nơi rồi, Ba Nghệch đã biết nói đùa! - Bọn mạch lô ồ cả lên. Nhưng tôi nhìn vào
mắt Ba Nghệch, nhận thấy sự biến đổi lớn lao và hiểu rằng hắn không đùa. Một chút dịu dàng
trên bộ mặt to bè, một tia vui trong đôi mắt trắng dã, một thoáng run rẩy của cặp môi dày nứt
nẻ- Tất cả đều nói lên hạnh phúc.
Thôi cũng mừng cho hắn. Số mệnh đã làm một sự lựa chọn tuyệt vời khi ném Ba Nghệch lên
Hòn Nhĩ. Không có nơi nào thích hợp hơn với hắn. Cù lao nhỏ xa đất liền này sẽ giúp hắn quên
hẳn quá khứ. Nhưng công việc nặng nhọc và đơn giản phù hợp với sức vóc cường tráng và cái
đầu đần độn của hắn. Nhưng còn một điều quan trọng nhất: ở đây hắn sẽ được sống giữa những
con người lương thiện, tốt bụng và chân thật. Trên các cù lao khắc khổ của miền trung này dân
cư sống với nhau như trong những gia đình lớn. Từ nhà nọ đến nhà kia không hề có rào giậu,
cổng rả gì, thành ra câu tục ngữ "yêu nhau rào dậu cho kín" hóa ra vô nghĩa. Hòn Nhĩ đã từ lâu
không xảy ra trộm cắp vặt. Tôi đã có dịp trò chuyện với cụ Chòm, người đàn ông cao tuổi nhất
đảo, đã từng làm phu mỏ trong đất liền, lại đi lính cho Pháp, cái gì cũng biết, bây giờ suốt ngày
khò khè trong xó bếp vì bệnh hen. Cụ Chòm kể:
- Hồi tôi mới lên chín mười tuổi được xem dân đảo hành hình Tảo Chột: Tảo Chột cũng là dân
chài, thế mà đột nhiên ăn trộm rượu của ông Lai Kỳ, tức là cụ của con bé Chắt Đực bây giờ.
Người ta cắt gân gót chân Tảo Chột, buộc đá vào cổ rồi thả xuống biển - Cụ Chòm đưa bàn tay
xương xẩu mô tả kích thước hòn đá rồi chép miệng: - Quân ấy sống thì thế nào cũng đẻ ra quỷ
sứ thôi!
Chuyện ấy dân đảo nghe đi nghe lại đến thuộc lòng; thậm chí còn bắt chước cả cách chép
miệng của cụ Chòm.
Thực ra tốt bụng và chân thực là những đức tính chung của dân miền biển. Trong cuộc sống
khắc nghiệt giữa thiên nhiên hung bạo, sự giả dối và ích kỷ, xưa nay vốn đồng nghĩa với nguồn
gốc chia rẽ, là những điều không thể nào tha thứ được. Nó sẽ dẫn đến cái chết của cả cộng
đồng.
Trang 8/10 http://motsach.info
Bão Lạc Mùa Sưu Tầm
Tôi hoãn nhổ neo và ngày hôm đó theo Ba Nghệch lên bờ. Các thủ tục được tiến hành chóng
vánh. Dân đảo không cầu kỳ, nếu không kể việc bắt cô dâu chú rể phải tuyên thệ bằng một bài
đồng dao hết sức ngô nghê. Sau đám cưới rất to đối với dân đảo - Ai cũng được chén thỏa thuê
cơm, rượu và mỡ lợn -Nhưng quá nhỏ đối với dân tàu - Vì chỉ có ngần ấy thứ - Chúng tôi để lại
cho vợ chồng Ba Nghệch một số đồ dùng rồi nhổ neo. Tất cả cư dân trên đảo ra tiễn. Ba
Nghệch dắt vợ lội xuống nước, khóc hu hu. Tàu đi xa rồi tôi lấy ống nhòm nhìn lại vẫn thấy vợ
chồng hắn đứng ngâm mình dưới nước. Tôi thầm cầu chúa phù hộ cho hắn. Mong sao cuộc
sống lương thiện sẽ gột rửa quá khứ khỏi đời hắn như nước biển trong xanh gột rửa những rác
rưởi trên bãi cát trắng sau lưng hắn kia.
đoạn kết
Sau chuyến đó "Hải Mã" thôi chạy tuyến Bắc - Nam vì thế tôi không có dịp ghé vào Hòn Nhĩ.
Tuy vậy thỉnh thoảng tôi cũng dò hỏi được đôi chút tin tức về Ba Nghệch. Hai vợ chồng hắn
sống hòa thuận, cần cù, lại có sức khỏe nên càng ngày càng khấm khá. Hình như hạnh phúc
cũng có thể góp phần mở mang trí tuệ con người. Ba Nghệch đã học được nghề đi biển. Hai vợ
chồng sắm một chiếc thuyền. Đến vụ Ba Nghệch đi khơi cùng đàn ông trên đảo. Chắt vẫn nấu
rượu, lại nuôi được đàn lợn, đời sống chẳng có gì đáng phàn nàn.
Bốn năm sau, có mối hàng mới, "Hải Mã" trở lại tuyến cũ. Tôi quyết định ghé thăm vợ chồng Ba
Nghệch. Thật bất ngờ, tôi được nghe một kết cục bi thảm sau đây:
Lấy nhau được hơn hai năm thì Chắt có thai. Hai vợ chồng mừng rỡ đón chờ đứa con đầu lòng.
Chắt đã gần băm tư mới có thai lần đầu, yếu lắm, người mệt mỏi, xanh rớt. Ba Nghệch bảo vợ ở
nhà, một mình gánh vác mọi việc.
Một hôm đang ăn cơm Chắt chợt để ý đến ngón tay trỏ tuột móng của chồng, hỏi bị làm sao. Ba
Nghệch đã lâu quên bẵng chuyện cũ, nghe hỏi giật bắn mình, buông bát. Chắt im lặng nhưng
hôm sau lại hỏi, lần này về vết sẹo ở xương quai xanh. Ba Nghệch càng thêm lúng túng. Hắn đã
nhiều lần được nghe câu chuyện của cụ Chòm, biết rõ định kiến của dân đảo nên hiểu rằng
không thể nào nói thật. Nhưng hắn cũng không biết nói dối. Hắn văng tục, tránh nhìn vợ, bỏ ra
khỏi nhà.
Thái độ của chồng làm Chắt sinh nghi. Thói xấu tò mò khiến người ta suy diễn. Đàn bà chửa lại
hay hoang tưởng, nỗi ngờ vực của Chắt dần biến thành sự sợ hãi. Chắt ngày đêm nơm nớp,
thường mơ thấy mình đẻ ra quỷ sứ ba đầu sáu tay. Càng gần đến ngày sinh Chắt càng thêm
hoảng loạn, nhiều lúc như điên dại, khóc lóc, van vỉ chồng nói sự thật. Ngược lại Ba Nghệch
ngày càng lì lợm cục cằn.
Hôm ấy Ba Nghệch về nhà không thấy vợ đâu. Linh tính mách bảo hắn chạy ra bến buộc
thuyền. Chắt khi đó đã có chửa tháng thứ bảy, bước đi lảo đảo như người mộng du. Ba Nghệch
đuổi kịp vợ trên sườn đảo, đúng chỗ ngày nào Chắt đã chòng ghẹo hắn.
- Mình đi đâu? - Hắn ngăn vợ lại.
- Sơn Hạ! - Chắt đáp.
Ba Nghệch ngã phịch xuống như một cây chuối đổ.
Trang 9/10 http://motsach.info
Bão Lạc Mùa Sưu Tầm
Ba Nghệch lại uống rượu - Thứ rượu khoai mà Chắt đã cất trước lúc ra đi. Bây giờ hắn uống
nhiều hơn cả khi còn ở Sơn Hạ.
Được bốn ngày thì rượu hết, còn đời hắn kéo dài hơn một ngày. Hôm sau dân đảo cắt gân gót
chân Ba Nghệch, buộc đá vào cổ và ném xuống biển.
- Đáng kiếp! - Cụ Chòm chép miệng và ai nấy đều chép miệng theo: - Quân ấy sống thì thế nào
cũng đẻ ra quỷ sứ thôi.
Hải Phòng 5-1990
(1) Thủy thủ.
(2) Một loài họ trai hến đặc sản biển.
(3) Hột vịt lộn.
Powered by TCPDF (www.tcpdf.org)
Trang 10/10 http://motsach.info
http://www.tcpdf.org