
Tiểu luận:Khủng hoảng nợ dưới chuẩn, bài học kinh nghiệm rút ra từ khủng hoảng cho hoạt động tài chính ở Việt Nam
Mô tả tài liệu
Hầu như không có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào, khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn ở Mỹ đã bất ngờ nổ ra vào giữa năm 2007. Cuộc khủng hoảng này có tác động mạnh đến cả hệ thống tài chính lẫn nền kinh tế thực. Các cơ quan điều tiết tài chính của Mỹ, từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), Ủy ban Chứng khoán (SEC) cho tới Bộ Tài chính đều đã phải vào cuộc nhằm giải quyết khủng hoảng.
Tóm tắt nội dung
Hầu như không có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào, khủng hoảng cho vay thế chấp
Nguồn gốc ban đầu của cuộc khủng hoảng tồi tệ này là sự chứng khoán hoá các
Thứ nhất, cơ chế cho vay đã bị đơn giản hoá, dựa hoàn toàn vào những đánh giá của
các công ty đánh giá mức độ tín nhiệm, dẫn đến nhiều khoản vay không đủ hai, cơ chế chứng khoán hoá đã đánh đồng các khoản vay đủ chuẩn và không
Các khái niệm và đặc điểm của tín dụng thứ cấp
Tín dụng thứ cấp còn gọi là cho vay dưới chuẩn, là các khoản cho vay các đối tượng
tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất cũng rất hấp dẫn và còn bằng tài sản thế chấp.
Tài sản thế chấp cho các
khoản vay này thường chính là các bất động sản mà người vay vốn mua.
Khả năng chi trả và điểm tín dụng của người đi vay không được xét theo quy định.
Do vậy, khi thị trường suy thoái, những người đi vay dạng này không có điều kiện trả
Mức độ lan tỏa rủi ro rộng là do sự mua đi bán lại các công cụ tài chính phát sinh
kéo theo quá nhiều các thành phần đầu tư trong nước cũng như nước ngoài vào cuộc
Do những khoản vay đã được “trái phiếu hoá” thành sản phẩm tài chính thông
dụng có thể chuyển nhượng, mua bán dễ dàng và rộng rãi trên thị trường chứng khoán
Cuối năm 2001, khi nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái, FED đã liên tục cắt giảm lãi
Chính sách tiền tệ mở rộng đã khuyếch trương các hoạt động kinh tế.
Căn cứ vào “tín hiệu” của ngân hàng trung ương, lãi suất trên hầu khắp các thị
tác động của dòng vốn vào đối với cung tiền vì họ tin rằng nền kinh tế vẫn đang trong
Với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế vào cuối năm 2002 làm
cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái quá đã dãn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín
Những người dân có thu nhập thấp và mức tín dụng dưới chuẩn được vay tiền để
đầu tư vào thị trường bất động sản với hi vọng được giàu lên nhanh chóng mà không
Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả
Cuối năm 2002, hoạt động của thị trường
nhà ở diễn ra sôi động nhờ thu nhập cá nhân tăng, lãi suất cho vay thế chấp thấp và các
Điều này đã khiến cho tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều
trường tại chính trong và ngoài nước.Cung tiền tăng, lãi xuất giảm đồng thời thực hiện
Tạo điều kiện cho người dân đi vay vốn mua bất động sản với hi vọng giàu lên nhanh
- Công ty tài chính thực hiện chứng khoán hóa các khoản cho vay của ngân hàn
mại mà tới các nhà đầu tư trong và ngoài vốn trở nên rất dồi dào.
Với những lý do trên thị trường bất động sản trở nên nhộn thấp và diểm tín dụng dưới chuẩn vẫn có cơ hội vay tiền mua nhà với mức lãi
Giá bất động sản tăng liên tục, với con mắt lạc quan các nhà đầu tư vẫn nhìn thấy
ánh sáng và cơ hội ở thị trường bất động sản và các nhà đầu tư vân tiếp tục có nhu cầu
Một phần, nhà đầu tư được trấn an bằng các hợp đồng bảo hiểm CDS từ các
công ty bảo hiểm và nhà đầu tư khác Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm càng
Dẫn đến việc đầu cơ và ỷ lại giá nhà sẽ tiếp tục tăng lên.
đã được hình thành trong thị trường bất động nhà đầu cơ đã thu lợi lớn chỉ đơn giản bằng cách mua nhà và bán lại, thậm chí
giới cho vay thế chấp nôn nóng đẩy nhanh và kết thúc các giao dịch nhằm thu về các
Giá trị tài sản của những người sở hữu nhà cũng tăng theo
Hầu hết các khoản vay dưới chuẩn đều theo hình thức vay thế chấp với lãi suất
tháng đã tăng dần theo thời gian do lãi suất cho vay được điều chỉnh lên những mức cao
Cho vay thế chấp dưới chuẩn là khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao.
Các khoản vay này không được xem xét kỹ lưỡng và thường được bảo đảm bởi rất ít hoặc
không có giấy tờ chứng minh khả năng tài chính của người đi vay.
Tùy theo mức độ, khoản nợ cho người có điểm tín nhiệm dưới chuẩn vay có đặc
điểm lãi suất cao, chiết khấu sâu, tỷ lệ nợ vay tối đa trên tài sản thế chấp thấp so với
Mức độ rủi ro của việc cho vay dưới chuẩn thật sự cao khi rủi ro về đạo đức xảy
Khi các tổ chức cho vay liều lĩnh, rót tiền vào khách hàng không thu nhập, không việc
Khi thi trường tài chính nhộn nhịp, việc chứng khoán hóa đã làm cho nguồn vốn
tăng lên dồi dào, các ngân hàng và tổ chức tài chính cố gắng tìm khách hàng cho vay để
Tiêu chuẩn cho vay giảm dần đến không có tiêu chuẩn, Các nhà môi
Đồng thời, nhiều người đi vay đã lợi dụng sự dễ dãi của môi trường cho vay để
Chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng các tài sản sẵn
có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành các loại chứng
trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính
Do đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro liên quan tới danh
Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa
để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản
(MBS, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị gọi là đòn bẩy tài chính được tận
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay
mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng
Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của
hàng tháng, giá trị bất động sản đi xuống không ngừng, các gói chứng khoán trả góp bị
Lãi xuất cao cộng với lòng tham của các ngân hàng và công ty tài chính đã dẫn
đã che mờ cái rủi ro hiện hữu trước mặt của các ngân hàng và tổ chức tài người dân tìm được nguồn vốn nhờ vay nợ dưới chuẩn là những nhà đầu tư
giá trị tiền vay nên các công ty địa ốc tiếp tục thổi bồng thị trường để nhận được món hoa
Điều này đã làm cho giá nhà tăng lên rất cao so với giá trị thực của
Trong quá trình chứng khoán hóa, thì các ngân hàng đầu tư, quỹ đầu tư, công ty
cả những đối tác nằm trong “đường dây” này đều hưởng lợi từ túi tiền của người bán nhà,
trả lãi xuất cố định, họ đã lao đầu vào các gói vay vốn với lãi xuất điều chỉnh với niềm tin
Lòng tham của các ngân hàng và tổ chức tài chính đã che mờ những rủi ro của
việc giá bất động sản tăng cao lên rất nhiều so với giá trị thực và nhu cầu mua nhà chỉ là
một nhu cầu ảo mà những người đầu tư, các nhà đầu cơ tạo ra để tăng giá bất động sản
còn khả năng trả tiền vay hàng tháng, giá trị bất động sản đi xuống không ngừng, các gói
Những khó khăn trên thị trường bất động sản và cho vay thế chấp đã rất đáng quan
ngại từ năm 2006, biểu hiện khủng hoảng đã xuất hiện với sự gia tăng nợ xấu và số tổ
chức cho vay phá sản: hàng loạt công ty bất động sản rơi vào phá sản và giá cổ phiếu
nhóm ngành bất động sản sụt giảm mạnh; giá trị các khoản vay dưới tiêu chuẩn lên đến
trên 600 tỷ USD, bằng 1/5 thị trường cho vay mua nhà của Mỹ và con số này càng tăng
lên trong bối cảnh lãi suất tăng cao và bong bóng bất động sản bắt đầu xì hơi; khoảng 70
Tháng 6/2007: Bear Stearns, ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ đã thông báo hai
trong nhiều quỹ bảo hiểm của họ đã mất hơn 1/2 tài sản do sự sụt giảm mạnh giá trị danh
làm là theo dõi một cách vô vọng sự mất giá của các khoản đầu tư.
Bear Stearns được bán cho Ngân hàng đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 triệu Đôla
khi mà các ngân hàng thua lỗ tuyên bố phá sản ngày một tăng, ngày 9/8, NovaStar
cho vay thế chấp hàng đầu Mỹ, phải đối mặt với nguy cơ phá sản
khác cũng tuyên bố phá sản và hàng loạt ngân hàng quốc tế lớn công bố kết quả kinh
doanh xấu trong lĩnh vực đầu tư vào bất động sản đã tác động mạnh đến thị trường tài
2,2 tỷ USD vốn và ngưng hoạt động 3 quỹ cho vay tiền mua nhà thứ cấp ở Mỹ vì lo sợ về
tính thanh khoản của các khoản vay thế chấp ở Mỹ.
dụng kéo theo sự hoảng loạn của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
đã sử dụng đến biện pháp mạnh tay là đồng loạt bơm tiền vào hệ thống ngân hàng của
Tổng số tiền các NHTW bơm ra trong vòng một tuần là hơn 400 tỷ USD, trong đó
tình trạng thiếu tiền mặt và bước đầu đã làm dịu bớt căng thẳng về thanh khoản tín dụng
trong bối cảnh nợ xấu đối với bất động sản ở mức cao và thị trường nhà đất Mỹ đang
trường chứng khoán Mỹ và thế giới; sau đó FED đã liên tục cắt giảm lãi suất để cứu nền
công bố kế hoạch bỏ ra hàng trăm tỷ mua lại 80% cổ phiếu của 2 tập đoàn đầu tư lớn nhất
ngân hàng Lehman Brothers lớn thứ 4 nước Mỹ, đã tồn tại gần 160 năm tuyên bố phá sản
cứu giúp bằng số tiền 85 tỷ từ đầu năm 2008 đến thời điểm đó đã có 13 ngân
tài chính sau khi một loạt điều khoản được đưa thêm vào phương án đó, trong đó có biện khủng hoảng tài chính Mỹ đã và đang tiếp tục lan sang Châu Âu khi
mà một số ngân hàng đã phải nhờ đến sự ứng cứu của nhà đầu tư và Chính phủ các nước.
Bên cạnh đó, Kết quả kinh doanh của các ngân hàng đầu tư lớn tại phố Wall được
công bố trong những tháng đầu năm 2008 lần lượt cho thấy các khoản tổn thất khổng lồ
chảy vào Mỹ từ các nền kinh tế tăng trưởng nhanh ở châu Á và các nước sản xuất dầu
Điều này lưu lượng vào các quỹ kết hợp với lãi suất thấp của Mỹ từ 2002-2004 góp
khoản cho vay của các loại khác nhau (ví dụ như, thế chấp, thẻ tín dụng, và tự động)
được dễ dàng để có được và người tiêu dùng cho rằng một tải khoản nợ chưa từng có.
Từ 01/01 đến chủ sở hữu của cổ phiếu trong các công ty Mỹ đã phải
phiếu giá trị nhà ở và thị trường giảm xuống hơn nữa áp lực nơi người tiêu dùng chi tiêu,
Một loạt các giải pháp đã được đề xuất bởi các quan chức chính phủ, ngân
Khách hàng vay dưới chuẩn thường có suy yếu lịch sử tín dụng và khả năng trả nợ
Cho vay dưới chuẩn có nguy cơ cao hơn mặc định hơn so với các khoản vay cho
vay servicer (một ngân hàng hoặc công ty tài chính khác), người cho vay có thể chiếm
Giá trị của các khoản thế chấp dưới chuẩn của Mỹ ước tính đạt 1300 tỷ $ vào năm dao động từ 18% -21%, so với dưới 10% năm 2001-2003 và trong năm quý III năm 2007, ARM cho vay dưới chuẩn chỉ chiếm 6,8% dư nợ thế chấp của
hoặc quá hạn cho vay đã bắt đầu tịch thu nhà tố tụng, gần gấp ba lần mức năm 1 năm 2008 , tỷ lệ nợ quá hạn đã tăng lên 21% và của Tháng Năm năm 2008 nó đã
Giá trị của tất cả các khoản thế chấp nhà ở nổi bật, nợ của hộ gia đình Mỹ mua
Trong năm 2007, người cho vay đã bắt đầu thủ tục tố tụng
tịch thu nhà vào gần 1,3 triệu tài sản, lên đến 2,3 triệu USD trong năm 2008, tăng 81% so
Biểu 3: Số tài sản ở Mỹ bị tịch thu nhà của quý hành động
Nhà bị tịch thu tập trung ở các quốc gia cụ thể cả về số lượng và tỷ lệ của hồ
Mười quốc gia chiếm 74% các hồ sơ tịch thu nhà trong năm 2008 đầu hai
Thực trạng khủng hoảng thị trường tín dụng thứ cấp tại các nước khác, đặc biệt
Mỹ là điểm xuất phát và là trung tâm của cuộc khủng của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu, cũng tham gia vào thị trường
làm các tổ chức tài chính này gặp nguy hiểm, mà tác động rõ nhất và nhanh chóng nhất là
ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng và thị trường chứng năm 2008, xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Ireland bị
giảm, khiến cho giá cổ phiếu của ngân hàng này sụt giảm nghiêm mất giá và phải chấp nhận cải cách để nhận được khoản vay tái cơ cấu của Chính
khoản lỗ lớn do tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Mỹ.
Pháp đình chỉ hoạt động các quỹ bảo hiểm của họ do thị trường chứng khoán thế chấp
thống ngân hàng trong khu vực để làm dịu việc thu hẹp tín dụng do các vấn đề cho vay
Quốc và ngân hàng Trung Quốc đã thông báo khoản lỗ trị giá 11 tỷ USD vì những rủi ro
một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh
Các quỹ đầu cơ bị ảnh hưởng của sự thắt chặt tín dụng sớm nhất.
nắm giữ một lượng lớn các CMO, CDO, vốn là những công cụ tài chính có tính đòn bẩy
Với mỗi đôla Mỹ nhận được từ các nhà đầu tư, quỹ đầu cơ có thể vay thêm 29 USD
(hầu hết là từ các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư) được đảm bảo bằng các
Khi giá trị của các khoản bảo đảm này bắt đầu
Những khó khăn tương tự cũng đã xảy ra với các quỹ của BN`P hay
được chuyển giao đến các SIV, sau đó SIV thâm nhập vào thị trường thương phiếu tìm
Khi các chứng khoán thế chấp “rơi tự do”, thị trường thương phiếu đã
Vào tháng sự ủng hộ của FED một tổ hợp các ngân hàng lớn đã đưa ra
kế hoạch giải cứu thị đó, một quỹ với số vốn 80 tỷ USD sẽ được thiết lập.
Quỹ này sẽ mua các chứng khoán nợ từ SIV với mức giá thấp nhằm tăng tính thanh
khoản và giảm thiểu rủi ro trong bảng cân đối kế toán của họ.
cứu nguy này đã bị hủy bỏ vào cuối năm 2007 và mỗi ngân hàng tự giải quyết vấn đề
sản ở SIV về lại bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Hậu quả là các ngân hàng đã nối
Các ngân hàng đầu tư đã sử dụng các mô hình máy tính để tính toán giá trị của
mô hình như thế này đã không thể điều chỉnh được trong điều kiện thị trường đang ngày
Theo IMF, giá trị thua lỗ của tất cả các khoản cho vay thế chấp ở
(vay kinh doanh bất động sản, nợ công ty, những khoản vay LBO) thì con số này có thể
Với mức độ khác nhau, các ngân hàng trên khắp thế giới đều bị ảnh lãi suất và thực hiện việc đánh giá những tác động của chính sách tới thị bằng cách mua trái phiếu kho bạc và tổ chức các chương trình đấu giá cho vay kỳ hạn
để các ngân hàng có thể có được nguồn tiền mặt cần thiết, tránh thiếu hụt thanh này đã khuyến khích các ngân hàng thương mại vay mượn tự do thông qua
khoán được đảm bảo bởi các khoản cho vay thế chấp cũng được chấp nhận vào danh mục
Vào tháng 3/2008, FED đã cứu Bear Stearns (một ngân hàng đầu tư lớn) khỏi phá
sản và thu xếp để J.P. Morgan Chase (một ngân hàng với bảng cân đối kế toán lành
Như vậy, lần đầu tiên, việc cứu một ngân hàng tư nhân đã khiến bảng
của khoản cứu trợ cả gói, FED cũng đã mở cửa sổ chiết khấu cho các ngân hàng đầu tư
bởi vì điều lệ chỉ cho phép FED cho các ngân hàng thành viên (chủ yếu là các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng khác) vay.
Các ngân hàng đầu tư chưa bao giờ là
cuộc họp khẩn cấp đã được triệu tập vào một ngày cuối tuần và chỉ có 5/7 thành viên có
và Bộ Tài chính đã ngay lập tức khiến cho thị trường “bình tĩnh” vụ của SEC là giám sát các ngân hàng đầu tư, công ty môi giới và các quỹ
Song những điều tồi tệ nhất lại đã xảy ra trong các tổ chức này mà SEC đã không
Các ngân hàng đầu tư đã sử dụng những mô hình toán học để cấu trúc các
tiến sĩ toán học của họ đã nhanh nhạy hơn các nhân viên của SEC trong việc bắt kịp với
lớn (như tại J.P. Morgan, và giám sát các hoạt động thường nhật của những
vệ các nhà đầu tư, không phải là bảo vệ các ngân hàng đầu tư bởi vì các ngân hàng này
Hành động đúng đắn nhất của SEC là hợp tác với FED và Bộ Tài chính để cứu
đã bảo đảm đền bù cho bất kỳ sự thua lỗ nào của Bear Stearns và đây là lần đầu tiên FED
cả các vấn đề liên quan đến kinh tế và tài tháng 8/2007, Bộ trưởng Paulson đã chấp thuận các chính sách của FED với vai trò
sách của FED nhằm tăng tính thanh khoản và cắt giảm lãi suất.
đã ủng hộ phương án gói cứu nguy 80 tỷ USD của nhóm các ngân hàng lớn.
tổ lớn để tái cơ cấu và củng cố việc giám sát tất cả các thể chế thị tư và các nhà môi giới được đưa vào khuôn khổ giám sát bởi vì giờ đây họ đã có
không chỉ bảo vệ sự ổn định của hệ thống tài chính Mỹ mà còn của toàn thế khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi vào suy
là tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) âm liên tục trong 2 quý.
giảm kinh tế là tốc độ tăng của GDP bị giảm sút trong nhiều quý (3,4 quý) )
Đến thời điểm năm 2009 GDP của Mỹ đã suy giảm 4 quý liên tiếp, chuỗi suy giảm dài
phải thu hẹp sản xuất, sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào.
gia tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng của các hộ gia đình lại
có nguy cơ bị phá sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Hoa Kỳ là General
dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy
triệu việc làm, đến tháng 9/2009 tỷ lệ thất nghiệp tăng lên mức 9,8% và con số này ở
Nguyên do tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao như vậy là các công việc bị cắt
Kèm theo đó là sự sút giảm trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp với mức tăng
trưởng âm từ đầu quý II năm 2008 đến nay với mức sụt giảm lớn nhất là -13,1% vào
Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy
tăng trưởng kinh tế thế giới đã làm GDP của các nước này đang từ chỗ tăng tới 5,1%
tăng trưởng trên dưới 6% trong các năm 2007 và 2008, sang năm 2009 chỉ còn tăng
Mỹ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy thoái,
hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức
Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Mỹ, nên cũng bị
Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho sản
Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng 20-21% kim ngạch
Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc độ tăng trưởng xuất
Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2008 đến đầu 2010 đã có
của Việt Nam sang Mỹ chỉ đạt 16,7%, thấp hơn khá nhiều so với mức 26,7% của năm
Tỷ trọng của thị trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã giảm,
Ngoài ra, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung hướng sang các thị trường khác tìm đầu ra mới, như Việt Nam, gây áp lực lớn cho
Nhật Bản và châu Âu cũng là những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt
Nam. Do bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng của các thị trường này
phải cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 giảm
biến động về giá cả xuất nhập khẩu, ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của nhiều doanh
Trong nửa đầu năm 2008, giá hàng hóa trên thị trường thế giới leo thang, gây áp
hầu hết các dự báo và hoạch định của doanh nghiệp, của các nhà điều hành chính chưa tác động lớn đến Việt Nam, do dòng vốn đầu tư vào đây đa số đều bắt nguồn
từ các nước trong khu vực và các nước châu Á chiếm tới tỷ lệ lớn dòng vốn đầu tư vào
giới sẽ tập trung vào những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định trong khi
trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam suy giảm vì những bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh
Thứ nhất, nguồn tín dụng của thế giới dần trở nên cạn kiệt, nên các hoạt động
đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu và Việt Nam cũng bị ảnh
nhìn trên các con số, tình hình vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cam kết vào Việt Nam
tổng phương tiện thanh toán vẫn tăng ở mức xấp xỉ năm 2008 thì vốn huy động vay cho
vay nền kinh tế qua hệ thống ngân hàng đều tăng trưởng khá thấp, đặc biệt là cho vay nền
kinh tế chỉ tăng 2,7% trong quí 1, chỉ đạt xấp xỉ 1/10 tốc độ tăng trưởng của cả năm 3/2008, nhưng trong quá trình tái cơ cấu các khoản tín dụng và đáp ứng yêu cầu
Tăng trưởng tín dụng sau khi tăng cao tới 54% trong năm 2007 đã
trưởng tín dụng hằng tháng luôn dao động từ 2% - 5% thì tốc độ tăng của tháng 7 chỉ còn
hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu (cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vay) của hệ thống ngân
giới, theo đó các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ gặp khó khăn hơn trong việc
huy động vốn, các nhà đầu tư sẽ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư.
Việc bán tháo chứng khoán ra khỏi thị trường Việt Nam mặc dù không cao do quy mô và
nhà nước trong một vai năm tới, việc huy động vốn thông qua thị trường vốn sẽ khó
khăn, trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính các
Do tác động của khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp đang niêm yết trên thị
Khủng hoảng tài chính Mỹ đã ảnh hưởng mạnh đến tâm lý của nhà đầu tư trên thị
tin về khủng hoảng tài chính tại Mỹ được đăng tải thì chỉ số giá chứng khoán Việt Nam
Mỹ, Ngân hàng Trung ương của một số nền kinh tế lớn bơm tổng cộng 247 tỷ USD vào
thị trường tài chính toàn cầu và bắt đầu có biện pháp can thiệp chủ động và tích cực thì
chỉ số chứng khoán Mỹ và thế giới đã tăng điểm mạnh mẽ trong phiên giao dịch ngày
gián tiếp qua các tác động đến thị trường tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán và các
Với những gì đã xảy ra, có thể thấy rằng sự thất bại của hệ thống quản trị rủi ro ở
rủi ro đã xuất hiện trở lại ngay trên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng hoặc tại các
khiến cho những ngân hàng này không thể để các công ty con của họ sụp đổ mà không có
thể thu được lời từ sự chênh lệch giữa giá trị tài sản có (các khoản cho vay thế chấp dài
được duy trì trong một môi trường kinh tế ổn định và thị trường ít biến chắc chắn nào đối với các tài sản bảo đảm sẽ dẫn đến việc thị trường các thương
Các chỉ số rủi ro của hầu hết các ngân hàng đã bị thu hẹp lại bởi vì họ đã loại trừ các
Hậu quả là các nhà đầu tư đã không được cung cấp đầy đủ
Môi trường kinh tế Mỹ đầu những năm 2000 khá ổn định, đặc biệt sau cuộc suy
thoái ngắn năm 2002, với mức lãi suất thấp, tính thanh khoản cao và các thị trường tài
Các ngân hàng đã bị ru ngủ và thỏa mãn với những gì đang xảy ra.
Trong thời kỳ này, các ngân hàng thương mại đã duy trì mức “đòn
bẩy” trung bình là 12 lần, con số này tại các ngân hàng đầu tư là 20 lần và tại các quỹ đầu
“Đòn bẩy” ở đây được định nghĩa như là số nhân các tài sản có được qua
Minh họa một cách đơn giản là: Với 1 USD vốn cổ phần, các ngân hàng
thương mại có thể nắm giữ một khoản đầu tư là 12 USD, các ngân hàng đầu tư nắm giữ
20 USD và con số này là 30 USD đối với các quỹ đầu cơ.
giá trị của các tài sản đem lại thu nhập sẽ sụt giảm nhanh và mạnh.
sản này là tài sản bảo đảm cho các khoản vay tín dụng để mua bán sản ký quỹ bổ sung không đủ, người cho vay sẽ tịch thu tài sản ký quỹ và bán chúng
sẽ được đưa ra với hậu quả là tài sản sẽ tiếp tục được bán tháo và vòng quay cứ thế tiếp sản phẩm tín dụng được cấu trúc lại là một phát minh lớn, làm tăng tính thanh
khoản của thị trường cho vay thế đã tiếp cận được với các nguồn tài chính này để có được nhà ở mà bằng cách khác họ
Khi thị trường trở nên quá nóng, các cấu trúc sư tài chính lại càng làm cho nó
Bắt đầu từ kết cấu đơn giản của MBS, tổng quỹ của các tài sản gốc trở nên
Kết cấu của nó được mở rộng và bao gồm cả các khoản vay công ty,
các trái phiếu rủi ro, các khoản vay LBO buyout – mua lại và sáp nhập doanh
về tham số rủi ro thực trong các hoạt động của họ.
các cấu trúc sư tài chính - những người hiểu rất rõ về cơ chế hoạt động của mỗi loại
Chính sự phức tạp của các sản phẩm đã khiến chúng ta khó xác định chính xác giá
Rất nhiều ngân hàng đã dùng mô hình định giá trên máy tính của riêng mình để
Nhưng các mô hình này lại không được công khai với các nhà giao dịch tại
Theo truyền thống, các ngân hàng tạo ra các khoản vay hoặc thực hiện đầu tư và
Vào những năm 1990, các ngân hàng đã cấu trúc lại các khoản cho vay hoặc các tài sản
có khác của họ thành những chứng khoán có thể mua đi bán lại và bán chúng cho các
chấp ở một thị trấn nhỏ của Mỹ có thể được kết hợp vào một CDO được nắm giữ bởi
sản được cấu trúc lại và bán đi, những người cho vay có rất ít động cơ để thực hiện việc
trưng của hoạt động ngân hàng trong đầu những năm 2000.
đối phó với sự nổ vỡ của bong bóng công nghệ cao năm 2000 và suy thoái kinh tế sau đó
Nhật Bản trong những năm 1990, Greenspan và các đồng nghiệp trong Hội đồng FED đã
suất thấp và thiếu vắng các tiêu chuẩn cho vay.
Khi các sản phẩm tín dụng được cấu trúc lại trở nên quá phức tạp, rất ít nhà đầu tư
giá của các tổ chức đánh giá mức độ tín nhiệm được xem là biện pháp nhanh chóng nhất để
các ngân hàng thuê họ đánh giá mức độ tín nhiệm cho các chứng khoán của chính những
Hơn thế nữa, tất cả các tổ chức này đều có những mô hình được thiết kế riêng để
cho các sản phẩm tín dụng được cấu trúc lại, thì các kết quả không còn đáng tin cậy.
nên có những đặc điểm khác so với các thị trường bất động sản Mỹ.
Ở Việt Nam chưa có khung pháp lý cho việc chứng khoán hóa bất động sản nên
chưa có việc các ngân hàng phát hành trái phiếu cho bất động sản thế chấp.
có hạn chế về huy động vốn cho thị trường bất động sản nhưng chưa có những rủi ro do
Dư nợ tín dụng cho lĩnh vực bất động sản vẫn nằm trong phạm vi an toàn.
cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến tháng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực
dư nợ tín dụng nền kinh tế của toàn hệ thống, giảm 14,25% so với năm 2010.Nợ xấu bất
Sản phẩm của thị trường bất động sản Việt Nam mà chiếm phần lớn là nhà ở được
Quan hệ cung - cầu trên thị trường bất động sản Việt Nam vẫn mất cân đối theo
Tuy tiềm năng của thị trường bất động sản Việt Nam còn rất lớn, nhưng thị trường
Thứ nhất: Trong năm 2006, 2007 tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã xảy ra
Tại những khu vực giá bất động sản tăng đột biến đã có hiện tượng đầu
cơ, mua đi bán lại, các nhà đầu tư găm, giữ hàng không đưa ra thị trường, nhằm đẩy giá
Thứ hai: Hàng hoá bất động sản, nhất là nhà ở có cơ cấu không hợp lý, chủ yếu các
doanh nghiệp đầu tư loại nhà cao cấp, diện tích rộng và giá thành lớn chỉ phù hợp với đối
tượng có thu nhập cao, trong khi đó nhu cầu và khả năng của phân khúc thị trường này
Thị trường thiếu hàng hoá có quy mô và giá cả
phù hợp với đa số nhu cầu của thị trường, thiếu loại nhà ở cho thuê phù hợp với nhu cầu
không phù hợp và cũng là một trong những nguyên nhân gây ra khủng ba: Lợi nhuận cao trên thị trường bất động sản trong thời gian vừa qua đã thu
hàng có quỹ hoặc công ty kinh doanh bất động sản, xuất hiện đầu tư nội bộ khó kiểm
Thứ tư: Việc cho vay mua bán bất động sản cũng có biểu hiện cho vay dễ dãi nhất
Có những ngân hàng cho vay mua bất động sản đến 70% giá trị
nghiệp vay tín chấp hoặc thế chấp bằng chính dự án với số vốn lớn để đầu tư bất động
Như vậy, cũng xuất hiện nguy cơ khi thị trường bất động sản trầm lắng, giá bất động
Thứ năm: Mặc dù chưa có khung pháp lý cho việc chứng khoán hóa bất động sản
thế chấp, nhưng cũng có hiện tượng có công ty kinh doanh bất động sản ban hành trái
2006 của Chính phủ) và cho người mua trái phiếu quyền ưu tiên mua bất động sản.
hoặc các chủ đầu tư có dự án bất động sản, tiến hành thành lập doanh nghiệp mới sau đó
Thứ sáu: Chính sách tín dụng không ổn định, việc hạn chế cho vay đầu tư kinh
doanh bất động sản và tăng lãi suất cho vay vào những tháng giữa năm 2008, tuy có tác
động hạn chế đầu cơ bất động sản, góp phần “giảm nhiệt” thị trường nhưng làm các chủ
đầu tư khó khăn trong việc huy động vốn, nhiều dự án đã bị kéo dài tiến độ hoặc bị đình
Tóm lại: dưới góc độ tài chính, thị trường bất động sản Việt Nam chưa có những rủi
ro do “chứng khoán hóa” bất động sản gây nên nhưng cũng có những biểu hiện tác động
ngược từ thị trường bất động sản tới thị trường tài chính, ngân hàng thông qua việc vay
vốn thế chấp để đầu cơ bất động sản nhưng nhỏ hơn về quy mô và mức độ.
Để thị trường bất động sản Việt Nam phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội cần phải triển khai có hiệu quả các
nhóm giải pháp đã được nêu trong Chỉ thị số ngày của Thủ
tướng Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển và quản lý thị trường bất động
sản, đồng thời tiếp tục nghiên cứu sâu hơn các định chế tài chính bất động sản của Mỹ
và các nước khác như các quỹ đầu tư, tái thế chấp, tín thác bất động sản để áp dụng
nhằm đa dạng hóa nguồn vốn cho thị trường bất động sản, nhưng kèm theo là cơ chế
Tỷ lệ cho vay trên giá trị căn nhà thấp và chỉ xem xét cho vay những đối tượng có
Thẩm định kỹ các dự án và phải tính đến trường hợp thị trường bất động sản rơi
đồng bộ các ngân hàng khi khủng hoảng và đổ vỡ.
khi gặp sự cố, có nguy cơ dẫn đến đỗ vỡ sẽ được tiếp nhận và xử lý theo một quy trình
chuẩn, hạn chế hậu quả ở mức thấp nhất và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
với đặc thù hoạt động tiền tệ, ngân hàng, thiết lập được một tổ chức đầu mối chịu trách
Như vậy nghiệm vụ chứng khoán đã xuất hiện tại Việt Nam, các chuyên gia nhấn
Việt nam cần có thị trường vốn hoạt động tốt; sản phẩm chứng khoán hoá phải có tính
thanh khoản cao; các biện pháp hỗ trợ tín dụng; bảo lãnh của Chính phủ và thoả thuận về
mức độ sử dụng tối thiếu đối với các tài sản cơ sở hạ tầng; thế chấp vượt trội và tăng
học cũng như rút ra những kinh nghiệm từ những sai lầm của các nước khác sẽ giúp
giá rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng) với những mức độ nghiêm trọng khác nhau.
Mặc dù hiện nay các ngân hàng có thể vẫn an tâm với mức độ mất khả năng chi trả thấp
trong số các con nợ của họ nhưng cần lưu ý rằng tổng dư nợ trong hệ thống ngân hàng
Một khi nhu cầu về bất động sản bão hòa hay tụt giảm và các
khoản cho vay bất động sản đến hạn thanh toán, số nợ mất khả năng thu hồi có thể sẽ trở
Do đó, các cơ quan chức năng, cũng như bản thân các ngân hàng cần có
những biện pháp, chính sách phù hợp để không xảy ra các tác động xấu do vỡ nợ cho vay
2. Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu (2007, 2008) đến hoạt động xuất khẩu
3. Khủng hoảng Tài chính và tác động đến FDI, xuất khẩu của Việt Nam – TS.
4. Khủng hoảng thị trường tín dụng thứ cấp (cho vay dưới chuẩn) và bài học kinh
5. Khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ: Bài học và một số kiến nghị -
7. Cuộc khủng hoảng tín dụng tín dụng nhà đất ở Mỹ và những kiến nghị đối với Việt