
RETROVIR (Kỳ 4)
Mô tả tài liệu
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG Người lớn : liều khởi đầu 200 mg zidovudine mỗi 4 giờ (1200 mg/ngày) nói chung được khuyến cáo cho bệnh nhân nặng 70 kg. Một khoảng liều rộng từ 500 và 1500 mg/ngày đã được dùng. Phác đồ liều lượng tối ưu (liều hàng ngày và thời gian dùng thuốc) vẫn còn được xác định và thay đổi theo từng cá nhân. Trong thực tế, nhiều bệnh nhân có thể được duy trì thoả đáng với liều 1000 mg/ngày chia làm 4 hay 5 lần. Trong các trường hợp cá biệt, bác sĩ...
Tóm tắt nội dung
RETROVIR
(Kỳ 4)
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG
Người lớn : liều khởi đầu 200 mg mỗi 4 giờ (1200 mg/ngày) nói
chung được khuyến cáo cho bệnh nhân nặng 70 kg.
Một khoảng liều rộng từ 500 và 1500 mg/ngày đã được dùng. Phác đồ liều
lượng tối ưu (liều hàng ngày và thời gian dùng thuốc) vẫn còn được xác định và
thay đổi theo từng cá nhân.
Trong thực tế, nhiều bệnh nhân có thể được duy trì thoả đáng với liều 1000
mg/ngày chia làm 4 hay 5 lần. Trong các trường hợp cá biệt, bác sĩ có thể cần
chọn một liều hàng ngày thấp hơn, tùy theo giai đoạn bệnh và các yếu tố có liên
quan (như dự trữ tủy hay thể trọng bệnh nhân). Không biết được tính hữu hiệu của
liều thấp hơn trong việc điều trị hay phòng ngừa các suy thoái chức năng thần kinh
đi kèm với SIDA và tính chất ác tính. Tính hữu hiệu của việc dùng liều cách xa
hơn (trong khoảng thời gian lâu hơn 6 giờ) vẫn còn chưa được xác định.
Trẻ em : ở trẻ em trên 3 tháng tuổi, liều khởi đầu khuyến cáo là 180 mg/m2
diện tích bề mặt cơ thể mỗi 6 giờ (720 Liều tối đa không nên vượt
quá 200 mg mỗi 6 giờ.
Phác đồ liều lượng tối ưu vẫn còn được xác định và có thể thay đổi theo
từng người. Một khoảng liều rộng từ 120 và 180 mg/m2 diện tích bề mặt cơ thể
mỗi 6 giờ (trong khoảng 480-720 đã được dùng. Không biết được
tính hữu hiệu của các liều lượng thấp trong việc điều trị và dự phòng suy thoái
chức năng thần kinh đi kèm với HIV và tính chất ác tính. Tính hữu hiệu của việc
dùng liều cách khoảng xa hơn trên trẻ em vẫn còn được xác định.
Điều chỉnh liều đối với bệnh nhân có độc tính trên máu : có thể cần thiết
phải điều chỉnh liều cho bệnh nhân có độc tính trên máu. Điều này hầu như thường
hơn ở bệnh nhân có dự trữ tủy kém trước khi điều trị, đặc biệt trên bệnh nhân mắc
HIV trong giai đoạn tiến triển.
Nếu nồng độ giảm xuống trong khoảng giữa 7,5 g/dl và 9 g/dl
hay số lượng bạch cầu trung tính giảm xuống giữa 0,75 x 109/l và 1 x 109/l, liều
hàng ngày có thể giảm cho đến khi có bằng chứng của sự hồi phục tủy, nói cách
khác, sự hồi phục có thể được tăng cường bởi một thời gian ngưng thuốc ngắn
hạn. Nếu cần phải xem xét giảm liều, có thể giảm một nửa liều hàng ngày và sau
đó tăng thêm dần, tùy theo dung nạp thuốc của bệnh nhân, cho đến liều ban đầu.
Điều trị với Retrovir nên gián đoạn nếu mức xuống thấp dưới
7,5 g/dl hay số lượng bạch cầu trung tính dưới 0,75 x 109/l. Sự hồi phục tủy được quan sát thấy xảy ra trong vòng 2 tuần sau thời gian dùng
với một liều đã được giảm bớt có thể được tái áp dụng. Sau 2-4 tuần sau, có thể
dần dần gia tăng liều, tùy theo dung nạp thuốc của bệnh nhân, cho đến liều ban
đầu.
Liều lượng cho người già : hiện nay không có sẵn số liệu đặc hiệu ; tuy
nhiên, nên áp dụng các biện pháp thận trọng thông thường cho người già.
Liều lượng trong trường hợp suy thận : các số liệu còn giới hạn ở bệnh
nhân suy thận không đề ra nhu cầu đặc biệt về điều chỉnh liều khởi đầu do nồng độ không gia tăng một cách đáng kể.
Tuy nhiên, sự tích tụ của các chất chuyển hóa có thể xảy ra
trong suy thận, mặc dù không biết được tác động của sự tích tụ này. Việc kiểm tra
nồng độ trong huyết tương (và chất chuyển hóa của nó),
kết hợp với kiểm tra các thông số huyết học, có thể cho thấy nhu cầu điều chỉnh
liều lượng sau đó. Làm thẩm phân máu cho thấy chỉ cho một tác dụng giới hạn
trong việc đào thải nhưng làm tăng cường sự đào thải chất chuyển hóa của nó.
Liều lượng trong trường hợp suy gan : các số liệu giới hạn trên bệnh nhân
xơ gan cho thấy rằng sự tích tụ có thể xảy ra trên bệnh nhân suy gan vì
giảm sự hóa. Có thể cần thiết phải điều chỉnh liều nhưng hiện tại
không thể cho các khuyến cáo chính xác. Nếu không thể thực hiện được kiểm tra
nồng độ trong huyết tương, bác sĩ sẽ phải chú ý đặc biệt đối với những
dấu hiệu không dung nạp và gia tăng khoảng cách giữa các liều cho thích hợp.
QUÁ LIỀU
Triệu chứng : các số liệu hiện nay còn giới hạn về tác động của việc uống
quá liều cấp trên cả người lớn và trẻ em. Không có trường hợp tử vong nào xảy ra
và tất cả bệnh nhân đều hồi phục. Nồng độ cao nhất trong máu của
được ghi nhận là 185 mmol (49,4 mg/ml). Không nhận thấy được các triệu chứng
hay dấu hiệu đặc hiệu xảy ra cùng với sự quá liều.
Các liều cao lên đến 1250 mg Retrovir uống mỗi 4 giờ trong vòng 4 tuần đã
được cho 2 bệnh nhân HIV tiến triển. Một người đã bị thiếu máu và giảm bạch cầu
trong khi người kia không bị ảnh hưởng nguy hại nào.
Các liều cao 7,5 mg/kg theo đường tiêm tuyền mỗi 4 giờ trong vòng 2 tuần
đã được dùng cho 5 bệnh nhân. Một người trong số đó bị phản ứng lo lắng trong
khi bốn người còn lại không bị ảnh hưởng nguy hại nào.
Điều trị : nên theo dõi bệnh nhân kỹ càng về các dấu hiệu độc tính (xem
Tác dụng ngoại ý) và áp dụng các biện pháp hỗ trợ cần thiết. Làm thẩm phân máu
cho thấy chỉ cho một tác dụng giới hạn trong việc đào thải nhưng có
thể làm tăng cường sự đào thải chất chuyển hóa của nó.a