
PHÂN HỦY HỮU CƠ TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN BIỀU HIỆN, NGUYÊN NHÂN
Mô tả tài liệu
Nuôi trồng thủy sản từ giai đọan cá bột, cá hương, cá giống, cá thịt, hay các mô hình nuôi cá cảnh, trong quá trình triển khai thường xảy ra hiện tượng phân hủy hữu cơ. Để nhận biết mô hình nuôi thủy sản đang diễn ra qúa trình phân hủy hữu cơ, trước tiên là chất lượng môi trường thay đổi theo chiều hướng xấu.
Tóm tắt nội dung
iết bản tin
PHÂN HỦY HỮU CƠ TRONG NUÔI TRỒNG THỦY
SẢN -
BIỀU HIỆN, NGUYÊN NHÂN, ẢNH HƯỞNG VÀ
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
Nuôi trồng thủy sản từ giai đọan cá bột, cá hương, cá
giống, cá thịt, hay các mô hình nuôi cá cảnh, trong quá
trình triển khai thường xảy ra hiện tượng phân hủy hữu cơ.
Để nhận biết mô hình nuôi thủy sản đang diễn ra qúa trình
phân hủy hữu cơ, trước tiên là chất lượng môi trường thay
đổi theo chiều hướng xấu. Trong đó, nguồn nước ao nuôi
trở dần từ màu xanh đậm sang nâu sậm hoặc đen. Nước đặc
quánh, có mùi tanh, hôi, khai. Trên tầng mặt xuất hiện
nhiều váng bọt, đôi khi có mùi trứng thối. Các lọai thủy
thực vật như lục bình, rong, bèo, tảo phát triển qúa mức dẫn
đến tàn úa, phân hủy. Vật nuôi thủy sản tập trung mật độ
cao trên mặt nước trong khỏang thời gian kéo dài từ 11h
đêm đến 7h sáng. Các thông số môi trường quan trọng như
oxy, nhiệt độ, độ phèn (pH) thay đổi liên tục theo chiều
hướng bất lợi cho cá nuôi. Hàm lượng các chất độc hại như
khí Amoniac (NH3), Nitríc (NO2), (H2S) tăng
cao gấp nhiều lần so với mức độ cho phép. Cá nuôi phải
liên tục điều tiết trước những thay đổi trên, hậu quả là gây
sốc cho cá. Nguyên nhân gây ra quá trình phân hủy là do
nguồn nước cấp thay cho ao nuôi. Trong quá trình di
chuyển qua các vùng ô nhiễm hoặc bản chất nguồn nước
lấy vào ao nuôi có quá nhiều chất phù sa, chất lơ lửng, chất
trầm tích, chất thải lắng tụ… đây là các nguyên liệu cần
thiết cho phản ứng phân hủy. Qúa trình cải tạo, nạo vét,
trước mỗi đợt nuôi xử lí thực hiện qúa sơ sài, chừa lớp bùn
qúa dày là điều kiện thuận lợi cho phân hủy hữu cơ sảy ra.
Trong qúa trình nuôi, người nuôi sử dụng một cách lạm
dụng phân, vôi, thuốc, hóa chất, chế phẩm. Gây ra sự tích
tụ dần với số lượng tăng cao qua mỗi ngày nơi đáy ao, hồ
nuôi, đây là các nguyên liệu tốt cho họat động phân hủy
hữu cơ. Cho ăn quá nhiều thức ăn, dẫn đến dư thừa, ôi
thiêu, phân hủy, kết hợp với phân của vật nuôi thủy sản,
xác cá tôm chết, nước tiểu chúng thải ra, xác các thực vật
tàn úa gây rã, thối. Tất cả những chất trên lắng tụ nơi đáy
ao, làm cho phân hủy hữu cơ xảy ra nhanh, nhiều, liên tục.
Như vậy, ảnh hưởng cụ thể của phân hủy hữu cơ xảy ra khi
có các nguyên liệu trên, có các chất xúc tác, các chất hỗ trợ
như nhiệt độ, oxy. Do vậy trong ao, đặc biệt là khu vực đáy
ao luôn có nhiệt độ cao, nhiều năng lượng, gây ra sự chênh
lệch nhiệt độ với các khu vực khác trong ao. Oxy trong ao,
đặc biệt là khu vực đáy ao luôn dưới ngưỡng giới hạn và
thiếu trầm trọng, do oxy đã được sử dụng trong các phương
trình phân hủy, gây thiếu oxy cục bộ. Thiếu oxy gây ảnh
hưởng trực tiếp đến qúa trình hô hấp của vật nuôi thủy sản.
Vật nuôi thủy sản tự điều chỉnh bằng cách di chuyển lên
tầng mặt, tập trung số lượng lớn các cá thể, cạnh tranh oxy
quyết liệt, dẫn đến hiện tượng chết do ngộp nước, thiếu
dưỡng khí. Do không đủ lượng oxy cần thiết, nên tảo trong
ao, hồ không thể thực hiện được phản ứng quang hợp,
phương trình quang hợp bị gián đọan liên tục, tảo tàn dần
và gia giảm mật độ. Màu nước xấu dần và mức độ ô nhiễm
tăng cao. Tảo tàn, ngòai việc lắng tụ xuống đáy tham gia
phân hủy hữu cơ gây ô nhiễm, ao nuôi mất dần vai trò lọc
sinh học tự nhiên của tảo, nên hàm lượng các chất độc hại
tăng cao dần và vượt ngưỡng cho phép chịu đựng của cá
nuôi, gây ra các sốc hóa học rất xấu đối với cá nuôi. Hàm
lượng các chất độc hại như khí Amoniac (NH3), Nitríc
(NO2), (H2S) tăng cao gấp nhiều lần so với
mức độ cho phép, những chất này là sản phẩm được tạo ra
từ phân hủy hữu cơ, và sẽ rất nguy hiểm trong trường hợp
trong ao tảo bị tàn. Biện pháp nào để khắc phục quá trình
phân hủy hữu cơ theo hướng chủ động, đầu tiên đó là thay
nước, chủ yếu thay nước đáy, lượng nước được thay chiếm
từ 1/3-1/2. Sau thay nước là công tác bón vôi, thường dùng
trong trường hợp này là vôi zeolite, định kỳ cứ 3-5 ngày
tiến hành bón vôi 1 lần. Nhanh chóng gây nuôi lại tảo bằng
các loại phân chuồng hoai, lượng dùng từ
Hoặc dùng phân vô cơ như DAP lượng từ
Dùng hỗ trợ thêm các chế phẩm sinh học, đặc biệt là các
chế phẩm sinh học có nguồn gốc từ các chủng loại vi sinh
vật hữu ích. Tham gia hấp thu, phân hủy, phân giải các chất
độc hại, chuyển hoá thành những chất ít hoặc không độc
hại. Phân hủy hữu cơ là hiện tượng xảy ra thường xuyên
trong các ao, hồ nuôi thủy sản. Tuy nhiên, mức độ ảnh
hưởng và tác hại của quá trình này lệ thuộc rất nhiều vào
qúa trình quản lí, chăm sóc. Nếu có sự chủ động trong việc
phòng ngừa, làm giảm các tác hại theo hướng tích cực, thì
hạn chế tối đa những tác động. Vấn đề sẽ trở nên trầm
trọng nếu luôn bị động trước những thay đổi, diễn biến
phức tạp của ao nuôi. Trong quá trình nuôi cá nên chủ động
theo dõi chặt các diễn biến, can thiệp kịp thời, đúng lúc.
KS. Lý Vĩnh Phước