
Bánh chưng
Mô tả tài liệu
Bánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Nguyên liệu làm bánh trưng gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong và bánh thường được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương) (mùng 10 tháng 3 âm lịch
Tóm tắt nội dung
Bánh chưng
Bánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng
biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Nguyên liệu làm bánh
trưng gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong và bánh thường được làm vào các
dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương) (mùng 10
tháng 3 âm lịch
Sự tích
Là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn
được sử sách nhắc lại, bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng
người Việt và nguồn gốc của nó có thể truy nguyên về truyền thuyết liên quan đến
hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu
về truyền thống của dân tộc; là lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của của
Bánh Chưng, Bánh Giầy trong văn hóa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của
cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước.
Quan niệm truyền thống
Theo quan niệm phổ biến hiện nay, cùng với bánh giầy, bánh chưng tượng trưng
cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Bánh có màu xanh lá cây, hình
vuông, được coi là đặc trưng cho đất trong tín ngưỡng của người Việt cổ và các
dân tộc khác trong khu vực châu Á. Tuy nhiên, theo Giáo sư Trần Quốc Vượng,
bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét, [đồng thời bánh
chưng và bánh giầy tượng trưng cho nam và nữ trong tín ngưỡng phồn thực Việt
Nam[1]. Bánh tét, thay thế vị trí của bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng
người Việt ở miền nam Việt Nam, theo Trần Quốc Vượng là dạng nguyên thủy
của bánh chưng.
Gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một
tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về.
Khi sêu tết nhau tặng bánh chưng thì người Việt có lệ tặng một cặp bánh chứ
không tặng một cái lẻ.
Nguyên liệu làm bánh
Lá để gói: thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ,
to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Tuy nhiên, tùy theo địa phương,
dân tộc, điều kiện và hoàn cảnh, lá gói bánh có thể là lá chít (một loại tre)[2], lá
chuối hay thậm chí cả lá bàng [3].
Lạt buộc: bánh chưng thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang.
Lạt có thể được ngâm nước muối hay hấp cho mềm trước khi gói.
Gạo nếp: Gạo nếp thường dùng gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt
to, tròn, dẻo đều và mới thu hoạch sẽ thơm dẻo hơn các vụ khác. Nhiều người
chọn nếp cái hoa vàng hay nếp nương, thực ra không đến nỗi cầu kỳ như thế vì
đây là loại bánh mang tính đại chúng.
Đỗ xanh: đỗ thường được lựa chọn công phu, tốt nhất là loại đỗ trồng ở
vùng đồi trung du Việt Nam (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Thọ v.v. sẽ
thơm và bở hơn). Sau thu hoạch đỗ cần phơi nắng đều thật khô, sàng sẩy hết rác,
bụi, hạt lép, phân loại hạt rồi đóng vào hũ, lọ bằng sành là tốt nhất.
Thịt: thường là thịt lợn, chọn lợn ỉ được nuôi hoàn toàn bằng phương pháp
thủ công (nuôi chuồng hoặc nuôi thả, thức ăn bằng cám rau tự nhiên không dùng
thuốc tăng trọng hoặc thức ăn gia súc). Thịt ba chỉ (ba dọi) với sự kết hợp của mỡ
và nạc cho nhân bánh vị béo đậm đà, không khô bã như các loại thịt mông, thịt nạc
thăn. Một số nơi, như tại Trường Sa, những người lính còn làm món bánh chưng
với nhân độc nhất vô nhị là dùng thịt chó hay thịt gà.
Gia vị các loại: hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân. Muối dùng để
trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì
bánh sẽ chóng bị ôi, thiu. Ngoài ra một số loại gia vị khác ít phổ biến hơn cũng
được sử dụng như thảo quả, tinh dầu cà cuống thường sử dụng tẩm ướp trong nhân
bánh tại Hà Nội xưa, tuy nay ít nơi còn cầu kỳ gia thêm loại gia vị này.
Phụ gia tạo màu: bánh chưng với màu xanh của nếp được tạo thành bằng
cách quay mặt trên của lá dong, lá chuối (mặt có màu xanh thẫm) vào trong, áp với
bề mặt của gạo nếp. Một số nơi còn sử dụng các phụ gia khác như lá dứa hay lá
giềng xay nhuyễn vắt lấy nước trộn gạo vừa tạo hương thơm vừa tạo cho bánh có
màu xanh ngọc. Một số nhà hàng bất chấp quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm
còn làm bánh chưng thương mại hóa sử dụng pin đèn cho vào nồi luộc bánh[4].
Một số người nội trợ cho biết kinh nghiệm nấu bánh chưng bằng nồi làm bằng
chất liệu tôn (chứ không phải nhôm) giúp bánh xanh mướt mà vẫn an toàn cho sức
khỏe
Chuẩn bị
Lá dong: rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Rửa càng sạch bánh
càng đỡ bị mốc về sau. Trước khi gói lá dong được người gói bánh dùng dao bài
mài thật sắc (loại dao nhỏ chuyên dùng để gọt) cắt lột bỏ bớt cuộng dọc sống lưng
lá để lá bớt cứng, để ráo nước (nếu lá quá giòn có thể hấp một chút để lá mềm dễ
gói). Một số vùng vẫn hay dùng lá chuối, trước khi gói nhúng nước sôi để dẻo.
Lau thật khô trên lá, cắt cạnh nhỏ vừa gói bánh.
Gạo nếp: nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo
ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và
tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì
ngâm nước muối.
Đỗ xanh: đỗ làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ, ngâm nước ấm 40° trong 2
giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Nhiều nơi dùng đỗ hạt đã đãi vỏ
trong khi những nơi khác cho vào chõ đồ chín, mang ra dùng đũa cả đánh thật tơi
đều mịn và sau đó chia ra theo từng nắm, mỗi chiếc bánh chưng được gói với hai
nắm đậu xanh nhỏ. Cũng có một số nơi nhét sẵn thịt lợn vào giữa nắm đỗ.
Thịt lợn: Thịt heo đem rửa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2,5 đến 3
cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ
cho thịt ngấm
Khâu chuẩn bị nguyên liệu, vật liệu cho bánh chưng đặc biệt quan trọng để
bánh có thể bảo quản được lâu dài không ôi thiu hay bị mốc. Thịt ướp dùng nước
mắm, vo nếp không sạch, đãi đậu không kỹ hay rửa lá còn bẩn, không lau khô lá
trước khi gói đều có thể khiến thành phẩm chóng hỏng
Quy trình thực hiện
Gói bánh
Bánh chưng được gói không khuôn tại một gia đình làm bánh chưng bán tết, chiếc
lá trong cùng quay mặt xanh vào trong để tạo màu cho nếp, 2 lá quay mặt xanh ra
ngoài với dụng ý hình thức
Thông thường có hai cách gói bánh chưng: gói bằng tay không hoặc gói theo
khuôn hình vuông khoảng 20 cm x 20 cm x 7cm sẵn có. Khuôn thường làm bằng
gỗ.
Cách gói tay không thông thường như sau
Rải lạt xuống mâm tròn tạo hình chữ thập
Đặt 2 chiếc lá dong lên trên lạt, nằm chồng 1/2 theo chiều dài lá lên nhau,
chú ý phải quay mặt trên của 2 lá ra phía ngoài và mặt kém xanh hơn (mặt dưới)
vào trong. Lượt sau: 2 lá rải như lượt đầu nhưng vuông góc với lượt đầu, chú ý là
lần này lại phải làm ngược lại, quay mặt trên lá (xanh hơn) lên trên, mặt kém xanh
hơn, úp xuống dưới.
Gạo nếp, xúc 1 bát đầy đổ vào tâm của hình chữ thập, dùng tay gạt đều, tạo
hình vuông mỗi cạnh 20 cm,
Lấy 1 nắm đỗ xanh bóp nhẹ và rải đều vào giữa vuông gạo đến gần hết bìa
gạo
Thịt lợn, lấy 1, 2 miếng tùy cỡ đã thái rải đều vào giữa bánh
Lấy tiếp 1 nắm đỗ xanh nữa bóp nhẹ rải đều phủ lên trên thịt
Xúc 1 bát gạo nếp đổ lên trên và phủ khỏa đều, che kín hết thịt và đỗ
Gấp đồng thời 2 lá dong lớp trên vào, vừa gấp vừa vỗ nhẹ để tạo hình khối
vuông
Gấp tiếp đồng thời 2 lá dong lớp dưới vào như lớp trên, vừa gấp vừa lèn
chặt nhẹ tay
Dùng lạt buộc xoắn lại tạo thành hình chữ thập
2 bánh chưng buộc úp vào nhau thành một cặp
Với cách gói có khuôn các giai đoạn cũng được tiến hành như trên. Tuy
nhiên, người ta cắt tỉa bớt lá dong cho gọn (vừa kích thước khuôn) và đặt trước các
lớp lá xen kẽ nhau vào trong khuôn (3 hoặc 4 lá, nếu gói 4 lá bánh sẽ vuông đẹp
hơn. Khi đó thường thì 2 lá xanh quay ra ngoài xếp tại 2 góc đối xứng nhau, và 2
lá xanh quay vào trong để tạo màu cho bánh). Sau khi đã cho nhân vào trong, các
lớp lá lần lượt được gấp lại và sau đó được buộc lạt.
Cách gói bánh có khuôn thì bánh đều nhau hơn và chặt hơn do được vỗ đều
gạo, nén chặt, còn gói không khuôn thì bánh được gói nhanh hơn do đỡ mất công
đo cắt lá theo kích thước khuôn. Bánh được gói không khuôn thì mặt trên lá được
quay ra ngoài, còn với bánh có khuôn thì mặt dưới lá lại được quay ra ngoài.
Luộc bánh
Lấy xoong to, dầy với dung tích trên 100 lít tùy theo số lượng bánh đã được gói.
Rải cuộng lá dong thừa xuống dưới kín đáy nhằm mục đích tránh cho bánh bị
cháy. Xếp lần lượt từng lớp bánh lên đến đầy xoong và xen kẽ các cuộng lá thừa
cho kín nồi. Đổ ngập nước nồi và đậy vung đun. Người nấu bánh thường canh giờ
tính từ thời điểm nước sôi trong nồi và duy trì nước sôi liên tục trong 10 đến 12
giờ. Trong quá trình đun, thỉnh thoảng bổ sung thêm nước nóng để đảm bảo nước
luôn ngập bánh (người thực hiện thường đặt sẵn ấm nước bên cạnh bếp đun bánh
để tận dụng nhiệt lượng). Những chiếc bánh ở trên có thể được lật giở để giúp
bánh chín đều hơn, tránh tình trạng bị lại gạo sau này. Trong lúc đun, có thể lấy
bánh ra, rửa qua trong nước lạnh, thay một lượt nước mới khác, bánh sẽ rền, ngon
hơn.
Lấy xoong to, dầy với dung tích trên 100 lít tùy theo số lượng bánh đã được gói.
Rải cuộng lá dong thừa xuống dưới kín đáy nhằm mục đích tránh cho bánh bị
cháy. Xếp lần lượt từng lớp bánh lên đến đầy xoong và xen kẽ các cuộng lá thừa
cho kín nồi. Đổ ngập nước nồi và đậy vung đun. Người nấu bánh thường canh giờ
tính từ thời điểm nước sôi trong nồi và duy trì nước sôi liên tục trong 10 đến 12
giờ. Trong quá trình đun, thỉnh thoảng bổ sung thêm nước nóng để đảm bảo nước
luôn ngập bánh (người thực hiện thường đặt sẵn ấm nước bên cạnh bếp đun bánh
để tận dụng nhiệt lượng). Những chiếc bánh ở trên có thể được lật giở để giúp
bánh chín đều hơn, tránh tình trạng bị lại gạo sau này. Trong lúc đun, có thể lấy
bánh ra, rửa qua trong nước lạnh, thay một lượt nước mới khác, bánh sẽ rền, ngon
hơn.
Lấy xoong to, dầy với dung tích trên 100 lít tùy theo số lượng bánh đã được gói.
Rải cuộng lá dong thừa xuống dưới kín đáy nhằm mục đích tránh cho bánh bị
cháy. Xếp lần lượt từng lớp bánh lên đến đầy xoong và xen kẽ các cuộng lá thừa
cho kín nồi. Đổ ngập nước nồi và đậy vung đun. Người nấu bánh thường canh giờ
tính từ thời điểm nước sôi trong nồi và duy trì nước sôi liên tục trong 10 đến 12
giờ. Trong quá trình đun, thỉnh thoảng bổ sung thêm nước nóng để đảm bảo nước
luôn ngập bánh (người thực hiện thường đặt sẵn ấm nước bên cạnh bếp đun bánh
để tận dụng nhiệt lượng). Những chiếc bánh ở trên có thể được lật giở để giúp
bánh chín đều hơn, tránh tình trạng bị lại gạo sau này. Trong lúc đun, có thể lấy
bánh ra, rửa qua trong nước lạnh, thay một lượt nước mới khác, bánh sẽ rền, ngon
hơn.
Ép bánh và bảo quản
Sau khi luộc xong, vớt bánh ra rửa sạch lá trong nước lạnh cho hết nhựa, để ráo.
Xếp bánh thành nhiều lớp, dùng vật nặng đè lên để ép bánh cho ra nước, chắc mịn
(tục gọi là để cho rền bánh) và phẳng đều trong vài giờ. Hoàn tất công đoạn ép
bánh, bánh được treo lên chỗ khô ráo trong nhà để bảo quản.
Bánh thường được treo ở nơi thoáng mát, không bụi bặm, ẩm thấp để tránh bị mốc
và ôi thiu, tùy thời tiết có thể để được hàng tháng trời không hỏng. Nhiều vùng
ngày xưa còn đưa bánh xuống ngâm dưới ao hoặc giếng nước để bảo quản, lá bánh
với nhựa của gạo khi nấu là lớp màng ngăn nước lọt vào làm hỏng bánh. Cách
ngâm nước bảo quản bánh chưng tương truyền gắn với sự tích vua Quang Trung
tiến quân ra Bắc Hà vào dịp tết nguyên đán năm Kỷ Dậu (1789), nhân dân bỏ bánh
chưng xuống ao, ngừng ăn tết nhằm hoàn tất đại cuộc phá quân Thanh và ăn tết
muộn sau đó. Tuy nhiên, hiện cũng ít nơi còn sử dụng phương thức bảo quản này
Sử dụng
Trên bàn thờ ngày tết không thể thiếu bánh chưng và bánh giầy được bày theo cặp.
Nhiều người cầu kỳ còn bóc bỏ lớp lá bên ngoài của bánh và gói lại bằng lá tươi
mới, sau đó buộc lạt màu đỏ trước khi đặt lên bàn thờ.
Trên mâm cỗ ngày Tết, bánh chưng vuông thường được cắt chéo bằng chính lạt
gói bánh đó, bánh chưng dài thường cắt lát ngang, gọi là "đồng bánh", để ăn cùng
với dưa hành, nước mắm rắc chút bột tiêu. Ra sau tết, bánh có thể bị lại gạo, bị
cứng, khi đó người ta thường đem rán vàng trong chảo mỡ và ăn kèm với dưa góp.
Ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ như Thanh Hóa, bánh chưng được chấm với mật
mía[6].
Bóc và cắt bánh chưng tết
Bánh chưng của chúng ta có đặc điểm là lớn, hình vuông (mỗi cạnh thường trên
20cm, dày 5-6cm), gói chặt với hai ba lớp lá dong (hoặc lá chuối kèm giấy bạc –
alluminium folie) và buộc bằng 4 hoặc 6 lạt dang. Mặt khác, chúng ta có thói quen
cắt nhỏ thức ăn cho ‘vừa miệng’, người ăn chỉ việc gắp vào bát mình rồi… nhai;
trong khi người Âu Mỹ hay cắt thức ăn theo xuất ăn, người ăn cần tự thái nhỏ
thêm rồi mới ăn.
Vì vậy, chúng ta mới có việc bóc và cắt bánh chưng. Việc này thể hiện cả nhận
thức và trình độ văn hóa của người bóc bánh và người thưởng thức bánh.
Trên mười năm trước đây, trên tạp chí Làng Văn chúng ta đọc thấy (tr.46): ‘Bóc
bánh chưng cũng cần có kinh nghiệm. Giở từng cái lá ở một mặt bánh sau đó tước
lấy 3 hoặc 6 sợi lạt nhỏ (từ những sợi lạt lớn buộc bánh luộc), đặt ướm lên mặt
bánh đã bóc vỏ, những lạt cùng chiều nên ướm cùng mức nông sâu như nhau (để
ngay sau đó khỏi lẫn) rồi lật bánh sang đĩa, dần dần bóc nốt cho hết lá sau đó xiết
từng lạt một để cắt bánh thành 16 miếng vuông hoặc 8 miếng hình tam giác. Cần
chú ý lạt nào đặt trước thì xiết trước nếu không sẽ kéo cả lạt chưa cắt lên, lúc đó
bánh không còn ra hình thù gì cả. Cắt thành 16 miếng thì miếng bánh nhỏ hơn,
thanh tú hơn nhưng phải bốn miếng góc, thường nhiều vỏ, ít nhân. Muốn giải
quyết ‘nhược điểm’ này, khi gói bánh … cần chú ý dàn nhân cho đều ra tận giáp
góc; như vậy mất nhiều thời gian nhưng miếng bánh góc vẫn đầy nhân và vẫn
ngon như thường. Cắt thành 8 miếng, hình thù không đẹp, miếng bánh to, trông
thô kệch nhưng có lợi điểm là nhân được chia đều. Có người cho là, chỉ những nhà
‘ăn tục nói phét’ mới cắt bánh theo kiểu này. Họ có khắt khe quá chăng?’
Cắt bánh bằng ngay lạt buộc trông miếng bánh mềm mại, bắt mắt. Miếng bánh cắt
bằng dao trông cứng khòe, không có hồn.
Bánh cắt bằng lạt (hình trái) và bằng dao (hình phải).
Mười một hình sau ghi lại 4 bước bóc và cắt bánh thường thấy:
Bước 1. Bóc lá và giấy bạc gói ngoài.
Bước 2. ặt lạt để cắt bánh.
Bước 3. ặt đĩa, lật bánh rồi bóc hết lá.
Bước 4. Xiết từng lạt một, lạt trắng đặt trước, xiết trước. Mời bạn nếm thử!
Cách cắt bánh như trên rất phổ thông trước đây. Chúng ta còn thấy một hình khắc
về cách cắt bánh như vậy ở Tập Tranh của bộ sách Technique du peuple annamite
(Kỹ thuật của người An Nam).
Hình 382_3D (hình D [thứ 4] ở hàng 3, trang tranh [planche] 382) chỉ có chú thích
chữ Pháp Empaquetage des gâteaux (Gói bánh). Chú thích này do anh sinh viên
năm thứ nhất Trường Thuộc địa (École coloniale) và Trường Cao học Thực hành
(École Pratique des Hautes Études, EPHE) tên là Henri Oger [1885-1936?] viết và
in ở Paris sau khi anh thực hiện nghĩa vụ quân sự ở Hà Nội khoảng 20 tháng (năm
1908 và mùa hè 1909); vì vậy mới có sự nhầm lẫn đáng tiếc (Bóc bánh lại ghi là
Gói bánh). Họa sĩ người Việt vẽ nhưng lại thừa một lạt ở hàng ngang (vẽ 4 lạt
nhưng thường chỉ có 3).
Bánh chưng dài
Một số vùng, trong đó có Phú Thọ - vùng trung du đất Tổ của các vua Hùng,
không thịnh hành gói bánh chưng hình vuông mà gói dạng tròn dài, gọi là "bánh
chưng dài", hay "bánh tày". Bánh tày còn là loại bánh Tết ở Kinh Bắc và tại nhiều
vùng dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam. (Xem bài bánh tét)
Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng bánh chưng cổ xưa không phải là hình vuông.
Theo ông: "Bánh chưng vuông tượng đất, bánh dày tròn tượng trời là một triết lý
rất Trung Hoa nhưng triết lý ấy thực ra còn chưa có ở đời Hán. Vậy, làm gì có
chuyện "bánh chưng vuông tượng trời" ra đời ở Việt Nam vào thời Hùng Vương?
Ở Cổ Loa, thủ đô của nước Âu Lạc, nơi chỉ cách trung tâm Hà Nội có 17 km mà
bây giờ vẫn có rất ít bánh chưng vuông. Họ thường gói bánh chưng tròn, còn gọi
là bánh tét hay là bánh tày".[7]
Bánh chưng dài thường được gói với rất ít đỗ, và rất ít hoặc không có thịt, mục
đích để dành ăn lâu dài vào những ngày sau tết, xắt thành từng lát bánh rán vàng
giòn hơn và ăn ngon hơn. Bánh chưng dài có thể dùng lá chuối, lá chít thay cho lá
dong, với 2 đến 4 lá xếp theo chiều dọc, rải gạo, đỗ theo chiều của lá và quấn bằng
lạt giang đã được nối bằng phương thức đặc biệt để bó chặt chiếc bánh.
Cũng thường thấy một kiểu bánh chưng khác, bánh chưng ngọt, không sử dụng
thịt trong nhân bánh, đường trắng được trộn đều vào gạo và đỗ. Một số vùng khi
thực hiện bánh chưng ngọt còn trộn gạo với gấc, cho màu đỏ đẹp. Khi gói bánh
chưng ngọt thường người ta không quay mặt xanh của lá dong vào trong.
Kỷ lục về bánh chưng
Chiếc bánh chưng làm tại làng nghề bánh chưng truyền thống Ước Lễ, huyện
Thanh Oai, Hà Nội nhân dịp Tết Nguyên đán Nhâm Ngọ (2002) đã được Sách Kỷ
lục Guinness và tổ chức Ripley's Believe It or Not![8] công nhận là chiếc bánh
chưng lớn nhất thế giới[9]. Bánh nặng 1,4 tấn do 50 nghệ nhân làng Ước Lễ làm ra
từ 330 kg gạo nếp, 100 kg đậu xanh, 100 kg thịt lợn, gói bằng 1.500 chiếc lá dong
và nấu trong một nồi thép cao trên 2 m trong hơn 72 giờ
Bánh chưng trong thơ văn
Trong câu đối phổ biến về sản vật ngày Tết, người ta thấy sự có mặt của bánh
chưng như một giá trị vật chất và tinh thần không thể thiếu trong dân tộc Việt
Nam:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.