
DÒNG DÕI CHÚA NGUYỄN (1600-1802) _4
Mô tả tài liệu
9. Nguyễn Phúc Thuần (1765- 1777) Nguyễn Phúc Thuần còn có tên húy là Hân, sinh năm Giáp Tuất (1751), con thứ 16 của Phúc Khoát. Mẹ Phúc Thuần người họ Nguyễn, sinh được hai trai, Phúc Thuần là thứ hai.
Tóm tắt nội dung
DÒNG DÕI CHÚA
NGUYỄN
9. Nguyễn Phúc Thuần (1765- 1777)
Nguyễn Phúc Thuần còn có tên húy là Hân, sinh năm Giáp Tuất (1751),
con thứ 16 của Phúc Khoát. Mẹ Phúc Thuần người họ Nguyễn, sinh được
hai trai, Phúc Thuần là thứ hai. Năm Giáp Ngọ (1774) bà đi tu ở chùa Phúc
Thành, sau đó mất (1804) được truy tôn là Tuệ Tĩnh thánh mẫu Nguyên sư,
hiệu là Thiệu Long giáo chủ.
Chúa Phúc Khoát lúc đầu lập Hoàng tử thứ 9 tên là Hiệu làm Thái Hoàng
tử, Hiệu mất sớm, con trai của Hiệu là Hoàng Tôn Dương còn thơ ấu mà
Hoàng tử cả là Chương cũng đã mất. Hoàng tử thứ hai là Nguyễn Phúc
Luân cũng rất khôi ngô, theo thứ tự sẽ phải lập Hoàng Tôn Dương hoặc
Nguyễn Phúc Luân lên ngôi. Phúc Khoát có ý lập Phúc Luân, nên đã trao
Luân cho một thầy học nổi tiếng là Trương Văn Hạnh dạy bảo những điều
cần thiết cho một người gánh vác ngôi vua. Phúc Khoát mất, tình hình lại
thay đồi. Quyền thần Trương Phúc Loan không muốn lập Nguyễn Phúc
Luân vì Luân đã lớn tuổi, khó bề lộng hành. Thế là Phúc Loan chọn lập
Phúc Thuần con thứ 16 của Phúc Khoát, mới 12 tuổi lên ngôi.
Phúc Luân không được lập mà còn bị bắt giam. Nội hữu Trương Văn Hạnh
- thầy dạy Phúc Luân cũng bị bắt giết. Phúc Luân không được nối ngôi
trời, lo buồn cho tính mạng mà chết khi tuổi mới 33. Đến năm Minh Mệnh
thứ 2 (1802) Luân được truy tôn hiệu là Hưng tổ.
Trải 9 đời chúa, đến đây nhà Nguyễn lại bị nạn quyền thần lấn lướt. Phúc
Thuần nhỏ tuổi, lại không phải là người được sắp sẵn đề lên ngôi, nay
thật bỡ ngỡ trên ngai vàng. Mọi quyền hành đều do Trương Phúc Loan
sắp dặt. Loan tự nhận là Quốc phó, giữ bộ Hộ quản cơ Trung tượng kiêm
Tần vụ. Thực tế Trương Phúc Loan thâu tóm vào tay từ chính sự đến kinh
tế. Các nguồn lợi chủ yếu của vương quốc Đàng Trong đều rơi vào tay
Loan. Thuế sản vật các mỏ vàng Thu Bồn, Đồng Hương, Trà Sơn, Trà
Vân... hàng năm Trương chỉ nộp vào ngân khố từ 1- 2 phần mười số thu
được. Các thứ lâm sản thủy sản đều chảy vào nhà Trương. Ngày nắng
Loan cho đem phơi của cải quý báu làm sáng rực cả một góc trời! Cả nhà
họ Trương chia nhau nắm hết mọi chức vụ chủ chốt. Quyền và tiền họ
Trương lấn át cả trong triều ngoài trấn. Có tiền có quyền. Loan mặc sức
hoành hành ngang ngược - người bấy giờ gọi là Trương Tần Cối.
Giữa lúc đó, Lại bộ thượng thư Nguyễn Cư Trinh, người có uy tín tài năng,
trụ cột của Nguyễn triều qua đời (tháng 5 năm Đinh Hợi 1767). Thế là họ
Trương không còn ai ngăn cản nữa, càng ra sức làm nhiều việc càn rỡ,
chẳng còn kiêng nể gì: bán quan buôn tước ăn tiền tha tội hình phạt phiền
nhiễu, thuế má nặng nề, thần dân cực khổ và căm giận. Những người có
tâm huyết và tài năng như Tôn Thất Dục, tinh thông kinh sử, thuật số, âm
nhạc, bị Loan tìm cách hãm hại. Tài chính kiệt quệ đến nỗi dật sĩ Thuận
Hóa là Ngô Thế Lân phải kêu lên triều đình. Nhưng mọi cố gắng của họ
Ngô không được hồi âm.
Giữa lúc đó, anh em Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu dấy nghĩa ở Qui
Nhơn, thanh thế ngày càng lừng lẫy và được dân chúng đồng tình ủng hộ.
Thêm vào đó, tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774) Trịnh lại đem đại quân vào
đánh Nguyễn. Cả Tây Sơn lẫn Trịnh đều nêu khẩu hiệu trừ khử quyền thần
Trương Phúc Loan và tôn phò Hoàng Tôn Dương. Chiến tranh loạn lạc lại
nổ ra, đất Thuận Hóa trước trù phú là thế mà nay trăm bề xơ xác la liệt,
"mỗi lẻ gạo trị giá một tiền, ngoài đường xác đói, người nhà có khi ăn thịt
nhau".
Trước tình cảnh dó, không còn cách nào khác, tôn thất nhà Nguyễn cùng
nhau hợp sức bắt trói Trương Phúc Loan nộp cho quân Trịnh. Tháng 12
năm 1774, quân Trịnh chiếm được Phú Xuân và đặt quan cai trị Thuận
Hóa. Trong số quan lại nhà Trịnh được cử vào Thuận Hóa có Lê Quí Đôn
(1776).
Tây Sơn tìm cách tạm hòa với Trịnh để yên mặt Bắc và có điều kiện đánh
Nguyễn ở phía Nam. Đại quân Tây Sơn cả thủy lẫn bộ đánh vào Sài Gòn.
Chúa Nguyễn chạy về Định Tường rồi lại sang Long Xuyên. Tháng 9 năm
Đinh Dậu (1777) quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ thống lĩnh đánh chiếm
Long Xuyên, chúa Nguyễn bị chết trận. Như vậy Nguyễn Phúc Thuần ở
ngôi chúa 12 năm, khi chết mới 24 tuổi, không có con nối.
10. Nguyễn Phúc Ánh
Nguyễn Phúc Ánh còn có tên húy là Chủng và Noãn, sinh năm Nhâm Ngọ
(1762), con thứ ba của Nguyễn Phúc Luân. Mẹ Nguyễn Ánh là con gái Diễn
Quốc Công Nguyễn Phúc Trung (có lẽ Phúc Trung được ban quốc tính),
người làng Minh Linh, phủ Thừa Thiên. Khi Nguyễn Phúc Luân bị quyền
thần Trương Phúc Loan phế truất rồi bắt giam năm Ất Dậu (1765), Nguyễn
Ánh còn nhỏ (4 tuổi) đang ở nhà riêng. Năm Quí Tỵ (1773), Tây Sơn khởi
nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 13 tuổi, theo chúa Phúc Thuần vào Quảng Nam.
Mùa thu năm Đinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Thuần tử trận, Nguyễn Phúc
Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu. Một tháng sau, Phúc Ánh tập
hợp được một đội quân nghĩa dũng, binh sĩ mặc toàn đồ tang, quyết tử
đánh chiếm lại Sài Gòn. Giúp Nguyễn Phúc Ánh lúc đó mới 17 tuổi có Đỗ
Thanh Nhân và một số tướng lĩnh khác. Ánh ra sức xây dựng lực lượng,
đắp lũy đất ở phía Tây sông Bến Nghé, đóng cọc gỗ ở các cửa cảng để
phòng ngừa tấn công của Tây Sơn. ánh đã có 50 chiến thuyền.
Năm Canh Tý (1780) Phúc ánh chính thức lên ngôi vương tại Sài Gòn,
dùng ấn "Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo" làm ấn truyền
quốc, niên hiệu thì vẫn theo chính sóc nhà Lê.
Tháng 3 năm Nhâm Dần (1782) Nhạc và Huệ kéo quân vào đánh Sài Gòn.
Phúc ánh chống lại ở cửa biển nhưng yếu sức đành thua trận. Phía Phúc
Ánh lần này có cả sĩ quan Pháp tử trận. ánh phải cưỡi thuyền nhỏ chạy ra
biển, đến trú ở đảo Phú Quốc. Đại quân của Tây Sơn rút về Quy Nhơn,
tháng 8 năm Nhâm Dần (1782) Ánh lại thu thập tàn quân trở lại Gia Định.
Tháng 2 năm Quý Mão (1783) Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại kéo vào đánh
cửa biển Cần Giờ, quân Nguyễn tan tác. Tôn Thất Mân, Dương Công
Trừng bị bắt hoặc chết, Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Ánh (Tức Nguyễn
Phúc Ánh) cùng với 5, 6 người tùy tùng, 100 lính chạy về Ba Giồng.
Tháng 4 năm đó, bị Nguyễn Huệ đuổi gấp: ánh phải cưỡi trâu lội qua sông
thoát thân rồi đem mẹ, vợ con ra Phú Quốc. Thủy quân Tây Sơn truy đuổi
đến tận đảo. Tình thế cực kỳ nguy khốn song nhờ cái cớ Lê Phúc Điển
mặc áo ngự đứng đầu thuyền giả làm Nguyễn Vương đánh lạc hướng Tây
Sơn, Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Côn Lôn. Phò mã Trương Văn Đa liền
kéo thủy quân Tây Sơn ra vây chặt 3 vòng quanh đảo, chúa Nguyễn như
"cá nằm trên thớt", bỗng một trận bão lớn làm thiệt hại nặng thủy quân
Tây Sơn. Nguyễn Ánh thoát được đến hòn Cổ Cốt, sau lại về Phú Quốc.
Thất bại liên tiếp, Nguyễn Ánh phải trao con là Hoàng tử Cảnh mới 4 tuổi
cho Bá Đa Lộc làm con tin sang cầu viện người Pháp. Rồi Nguyễn Ánh từ
biệt mẹ và vợ con đem quân chạy ra ngoài cõi. Nguyễn Ánh chơi vơi ngoài
biển suốt một tuần liền, thiếu lương ăn, nước ngọt, quân sĩ tưởng khó
thoát chết, nhưng nhờ may mắn mà sống sót.
Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh đem theo cả mẹ và vợ con
chạy sang Xiêm nương thân và cầu viện. Mùa hè năm đó, Nguyễn Ánh dẫn
quân Xiêm gồm 2 vạn thủy quân và 300 chiến thuyền kéo về Sài Gòn, Gia
Định. Nhờ có viện binh, Nguyễn Ánh chiếm lại Ba Xắc, Trà Ôn, Mân Thít,
Sa Đéc...
Tháng 12 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Nhạc được tin cấp báo, tức thì sai
Nguyễn Huệ đem quân vào cứu Sài Gòn. Quân Tây Sơn mai phục ở Rạch
Gầm và Xoài Mút (tinh Định Tường), rồi dụ quân Xiêm vào trận. Quân Xiêm
đại bại, Chiêu Tăng, Chiêu Sướng cùng vài nhân sĩ tốt theo đường núi
chạy về nước. Nguyễn ánh đi Trấn Giang rồi sang Xiêm, xin trú ở Long Kỳ
(người Xiêm gọi là Đồng Khoai, ở ngoài thành Vọng Các) sai người đón
mẹ và vợ con đến. Quân Nguyễn nhờ đất Xiêm mà sản xuất, trồng cấy,
đóng chiến thuyền, tích trữ lương thực, thu nạp quân sĩ, đợi thời cơ. Lưu
trú trên đất Xiêm, Nguyễn Ánh đã giúp vua Xiêm đánh bại Diến Điện... Vua
Xiêm thán phục, đem vàng lụa đến tạ ơn và hứa giúp Nguyễn Ánh lấy lại
Gia Định. Sau trận đánh Diến Điện, Nguyễn Ánh còn giúp vua Xiêm đánh
lại quân Chà Và.
Năm Đinh Mùi (1787), trước lực lượng hùng mạnh của Nguyễn Ánh, lại
được Bồ Đào Nha giúp đỡ, vua Xiêm tỏ ra không bằng lòng. Biết vua Xiêm
không giúp gì hơn, Nguyễn Ánh lặng lẽ rút quân về nước, dùng kế ly gián
giết Phạm Văn Tham, đuổi Nguyễn Lữ chiếm lại Sài Gòn - Gia Định tháng 8
năm Mậu Thân (1788). Thế là trong khi Nguyễn Nhạc bất lực chỉ biết bo bo
giữ Qui Nhơn, Nguyễn Huệ phải lo đối phó với tình hình Bắc Hà, đánh đuổi
20 vạn quân Thanh, Nguyễn Ánh ở Gia Định nắm thời cơ chuẩn bị, củng
cố lực lượng. Nguyễn Ánh còn sai sứ thần Phan Văn Trọng và Lâm
Đồ mang thư và 50 vạn cân lương sang giúp nhà Thanh. Năm Kỷ Dậu
(1789), Hoàng tử Cảnh từ phương Tây về nước, Cảnh đi cùng Bá Đa Lộc
sang Pháp cầu viện, lênh đênh trên biển và hải cảng các nước, hai năm
sau mới đến Paris. Hoàng đế Pháp tiếp đãi theo vương lễ song chưa giúp
được gì. Vì triều đình còn gặp khó khăn. Cảnh về đến Gia Định vừa đúng
bốn năm đi xa. Hai sĩ quan Pháp ở lại phụng sự Chúa, được ánh đặt tên là
Thắng và Chấn, cấp một nghìn quan tiền, trao cho chức Cai đội.
Trên lãnh địa của mình, Nguyễn Ánh đã hết sức cố gắng nhanh chóng
tăng cường binh lực và mọi mặt. Một loạt chính sách được ban hành: đặt
quan điền tuấn, chuyên lo việc làm ruộng, thi hành phép ngụ binh ư nông,
trai tráng khi cần là lính chiến, hết trận về làm ruộng, định lệ khuyến nông,
đặt đồn điền... Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm đến phong thưởng và đãi
ngộ tướng sĩ trận vong hoặc có công lao. Nguyễn Ánh đặt quan hệ tốt với
các nước láng giềng, nhất là binh sĩ Xiêm nhằm tăng cường thanh thế. Đối
với châu Âu đang giúp rập, ánh hết sức ưu ái. Tháng 9 năm Kỷ Mùi (1799)
Bá Đa Lộc, giáo sĩ người Pháp, ân nhân của Nguyễn Ánh qua đời được
ánh truy tôn là Thái phó Bi Nhu Quận công. Tang lễ được cử hàng cực kỳ
trọng thể, nước Nam chưa làm thế bao giờ.
Từ 1792 Nguyễn Ánh bắt đầu mở các đợt tấn công ra Qui Nhơn theo chiến
thuật "tằm ăn lá dâu" và theo từng mùa gió nồm: "Gặp nồm thuận thì tiến,
vãn thì về; khi phát thì quân lính dủ mặt về thì tản ra đồng ruộng". Sau cái
chết của Quang Trung, Nguyễn Ánh càng ráo riết thực thi chiến thuật trên.
Năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn ánh chiếm được Qui Nhơn, đồi thành Binh
Định.
Từ đó Nguyễn Ánh bắt đầu giành được thế áp đảo, khiến Nguyễn Quang
Toản non yếu, nội bộ lục đục không sao chống nổi. Sau khi Nguyễn
Quang Toản mất vào tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh lên ngôi
hoàng đế.